Thứ Ba, 22 tháng 6, 2021

Điệu kèn ai buốt trong tôi

 
Tôi thích nghe trumpet và có nỗi ám ảnh kỳ lạ với loại nhạc cụ này. Mỗi khi trumpet cất tiếng, tôi luôn cảm giác tiếng kèn vừa bất chợt mở ra cho tôi cánh cửa dẫn vào thế giới khác, một thế giới đã bị bôi xóa và phong yểm bởi sự lãng quên mà tiếng kèn chính là ánh chớp lóe, là câu thần chú hóa giải niêm ấn giúp tôi trong thoáng chốc nhìn thấy được những góc khuất sầu thảm nhất của tâm hồn con người với những niềm đau cổ xưa, những khát vọng, những hân hoan từ lâu đã hóa điêu tàn. Có những cõi miền chúng ta chỉ có thể bước vào chiêm bái trong giấc mộng. Trumpet dựng lên những cõi miền này cho tôi khi tôi đang thức giấc, và giữa những phế tích ảo ảnh mà nó tạo dựng, đôi khi tôi thấy cả những vụn vỡ của chính cuộc đời mình.
 
Nhà tôi những năm 60-70 nằm gần như đối diện với một căn cứ hậu cần của quân đội Mỹ ở Đà Nẵng. Chênh chếch bên kia đường, ngay sau lớp hàng rào kẽm gai um tùm cỏ ống là chỗ ở của đội lính tuần tra bảo vệ căn cứ - một căn nhà tiền chế với mái vòm theo kiểu các hangar chứa máy bay ở phi trường. Có một dạo, cứ đến giấc chiều là lại nghe từ đấy vẳng ra tiếng nhạc kèn. Mấy thanh niên trong phố tỏ vẻ rành rẽ bảo đó là tiếng trumpet của một anh lính da đen mới vừa chuyển tới. Tôi chưa được tận mắt nhìn thấy người lính này thổi kèn bao giờ nhưng thích mê âm thanh của thứ nhạc cụ có cái tên gợi thanh đầy thú vị ấy. Trong bóng chiều muộn, tiếng trumpet thoảng nghe vừa hùng tráng lại vừa bi thiết, rất khó tả! Mẹ tôi bảo: ông lính này chắc ổng nhớ nhà! Một bữa lên sân thượng thả diều, ngó sang phía căn cứ Mỹ, tôi bất ngờ nhìn thấy một người da đen đang ngồi chơi trên mấy bậc thang gỗ của căn doanh trại. Trông thấy tôi, anh ta thân thiện đưa tay chào theo lối nhà binh rồi nhe răng cười. Tôi cũng vẫy tay chào lại mà lòng nghĩ, có khi nào đây là ông lính thổi kèn mà mấy anh xóm trên đã nói? Nhưng hôm ấy chẳng thấy anh ta chơi kèn gì cả, chỉ ngồi im lặng ngó trời xanh. Thắc mắc vậy, nhưng với trẻ con thì còn biết bao điều cuốn hút khác. Tiếng kèn của người lính chưa biết mặt như lệ thường vẫn cứ tiếp tục vang lên mỗi chiều, khi rộn rã, khi trầm ngâm, buồn vui tùy tâm trạng, cũng như tôi, khi bình thường vẫn thích ngồi nghe, nhưng lúc ham chơi quá thì thôi! Cho đến lần bị cảm cúm phải nghỉ học ở nhà đến mấy bữa, đi ra đi vào mãi cũng chán, nghe tiếng kèn, tôi mới trèo lên sân thượng dòm qua. Và quả như tôi nghĩ, người thổi trumpet chính là anh lính da đen bữa trước. Thấy tôi xuất hiện, làm như có khán giả khiến anh thêm phần phấn khích, giọng kèn của anh sôi nổi hẳn lên. Anh hướng loa kèn về phía tôi, say mê chơi hết bài này tới bài khác...
 
Sách Khải huyền trao cho trumpet sứ vụ báo hiệu tận thế. Theo đó, bảy hồi kèn sẽ đem tới mưa lửa, máu tanh, thiên tai, chiến tranh và dịch họa. Tôi nhớ bức tranh từng làm tôi sợ chết khiếp trong kho chứa đồ cũ của ngôi nhà thờ ở gần nhà khi tôi theo thằng bạn trong đội phụ lễ vào đó chơi. Đấy là tranh vẽ một thiên sứ có gương mặt lạnh băng đang dõng dạc thổi kèn, một quả núi với những lưỡi lửa ngùn ngụt tóe ra như cái đầu rắn của Méduse từ trời cao lao thẳng xuống mặt biển mà nửa phần đã biến thành máu đỏ, trong làn nước kinh dị đó ngoi ngóp những hình nhân cùng tàu bè lớn nhỏ bị đánh chìm. Thằng bạn cắt nghĩa đó là cảnh kèn báo ngày phán xử cuối cùng! Thật khó có thể hình dung ra mối liên hệ gần gũi nào giữa cây kèn đồng hung tợn trong bức tranh thánh kia với tiếng trumpet mà tôi được nghe trong buổi chiều êm ả đến kỳ cục giữa cái thành phố sắp sửa bị xáo tung lên vì chiến cuộc sẽ diễn ra vào đúng mùa hè năm ấy: mùa hè đỏ lửa 1972. Cho đến tận bây giờ, đã gần nửa thế kỷ trôi qua, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng trumpet tình cờ trỗi lên đâu đó, ký ức mông lung vẫn dẫn tôi về với buổi diễn kèn tuyệt thú thuở nào mà tôi may mắn được làm khán giả. Chiều hôm ấy tôi đã được nghe những bản nhạc gì, tôi chẳng biết và cũng chẳng còn nhớ nữa. Trong ráng chiều mùa hè mà ánh phản chiếu trên dáng ngồi của người lính đang mải mê chìm vào dòng âm thanh do chính mình tạo dựng, những đường viền của nắng bao quanh tạo ảo giác anh đang bốc cháy. Ở đó, tiếng kèn là cơn lốc xoáy, là thế giới biệt lập của nỗi buồn mà người lính Mỹ nhớ nhà vừa mở ra bằng cây trumpet của mình. Mọi thứ xung quanh tôi như đang bốc hơi. Bay lơ lửng trong không trung những trại lính xám tro, những lô cốt phòng ngự tối ám, những rào kẽm gai chằng chịt biển báo mìn với hình sọ người xương đan chéo, con đường dẫn ra biển, những bụi xương rồng, vạt dứa dại, những cồn cát vàng sầu dáng phi lao, và cả tôi nữa...
 
Hồi học trường nhạc một bạn đồng môn có lần hỏi tôi, trong các bộ nhạc cụ của dàn nhạc bạn thích dùng loại nào nhất? Tôi trả lời là đàn dây (trên nghĩa đa năng hữu dụng), nhưng lòng thì cứ âm thầm nghĩ đến bộ đồng, đến tiếng kèn trumpet. Hình ảnh xa xưa nhất của cây kèn trumpet được mô tả trong nghệ thuật Ai Cập cổ đại thường đi cùng với những người lính đang hành quân hoặc các nghi thức tôn giáo. Người Assyria, người Do Thái, rồi Hy Lạp, La Mã cũng cứ lối ấy tiếp tục sử dụng kèn làm công cụ báo hiệu trong chiến tranh, trong sinh hoạt tôn giáo, các đám rước hoàng gia và những cuộc săn bắn. Kèn trumpet được cho là biến mất khỏi châu Âu một thời gian khá dài sau sự sụp đổ của La Mã, và chỉ đến khi diễn ra các cuộc thập tự chinh ở cuối thế kỷ XI mới rải rác xuất hiện trở lại nhưng vẫn với chức năng xưa cũ là công cụ phục vụ cho vương quyền, thần quyền, và là hiệu lệnh cho những cuộc chém giết đẫm máu. Theo từ điển Grove, mãi đến năm 1610 trumpet mới rũ bỏ được phần nào các chức năng cũ để bước vào thế giới huy hoàng của nhạc nghệ thuật cùng tác phẩm của các nghệ sĩ cung đình như Reimundo Ballestra, Giovanni Valentini, Christoph Straus, sau đó là hàng loạt các nhà soạn nhạc của thời kỳ baroque như Biber, Scheidt, Schütz, hay Franceschini, Gabrielli, Torelli, Purcell, Telemann và Bach vĩ đại. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVIII, sự thống trị của giai điệu trong xu thế âm nhạc thời kỳ cổ điển đã khiến kèn trumpet - với những hạn chế trong cấu tạo tự nhiên của mình cùng âm sắc bị cho là quá chói sáng - suýt bị loại ra khỏi biến chế dàn nhạc và thường chỉ được dùng để lấp đầy trong những đoạn tutti toàn dàn nhạc khi miêu tả tính chất anh hùng, không khí hội hè chiến thắng. Cách nhìn nhận có phần cực đoạn đó bắt đầu thay đổi khi trumpet liên tục có được những cải tiến lớn về kỹ thuật trong suốt thế kỷ XIX, đặc biệt là hệ thống van và rãnh trượt của cây kèn hiện đại. Nhạc jazz cùng những nghệ sĩ trumpet tuyệt vời của nó trong nửa đầu thế kỷ XX là cú hích sau chót cho chuyển biến này, dù vậy, cũng phải đến sau Thế chiến II kèn trumpet mới thật sự được công nhận trở lại như một nhạc cụ độc tấu trong âm nhạc dàn nhạc.
 
Tâm thức thính giả Việt nhìn chung cũng chẳng mấy ai yêu thích trumpet. Đặc tính ưa ca hát, ưa những giai điệu ngọt ngào thường dẫn số đông người nghe đến với saxophone, thứ kèn có ưu thế hơn hẳn trumpet về cấu tạo kỹ thuật, có âm sắc mềm mại ấm áp gần với giọng hát, dễ dàng nức nở những bài ca mà người ta quen nghe và nhẩm theo đến thuộc lòng được phát hàng ngày trên sóng phát thanh và truyền hình. Tôi cũng không thoát khỏi khẩu vị số đông đó, dẫu riêng biết chẳng thứ nhạc cụ nào có thể mang đến cho mình những xúc cảm kỳ lạ như trumpet đã từng. Chỉ trumpet mới gợi cho tôi nỗi hoài nhớ, cảm giác trống vắng siêu hình về cả những thứ mình chưa từng nhìn thấy, chưa từng nghĩ đến, chưa từng sở hữu; nó cho tôi thấy được sự bất lực và hữu hạn của mình trong cõi nhân sinh; thương xót phủ dụ tôi nhưng cũng đồng thời lạnh nhạt cười cợt chế diễu tôi… Bí mật nào ẩn dấu trong tiếng kèn kỳ lạ đó? Có một trưa tình cờ dừng xe trước ngã tư dưới cơn mưa nặng hạt chờ một đám tang đi qua. Đi diễu ngay sau di ảnh của người quá cố là đội kèn đồng phố huyện quần áo mũ mão lướt thướt ướt. Giữa hàng người nhốn nháo, giữa bầu âm thanh như cũng nhòe nhoẹt vì mưa của những clarinet, saxophone, trombone đầy nghiệp dư, tôi bỗng nghe thấy tiếng trumpet như kim châm nhói lên một giai điệu đẹp nhưng lạc lõng và chẳng chút liên quan gì đến những âu sầu huyên náo vây quanh; tiếng kèn nghe như lời than vãn của một anh hùng nay đã sa cơ thất thế, một kiếm khách lỡ thời lây lất sống chuỗi ngày tàn giữa đám giá áo túi cơm hèn mọn. Nhìn cây trumpet loáng ánh mưa trên tay người đàn ông dáng còm nhom thảm hại của đội kèn đưa đám, tôi như bất giác trông thấy phía sau đó là thẳm thẳm những ngàn năm trôi nổi thăng trầm của tiếng kèn. Trumpet mang trong giọng hát của nó máu và nước mắt của gần như toàn bộ lịch sử nhân loài. Nó là nhạc cụ duy nhất từng nhìn thấy máu chảy thành sông thây chất thành núi trên những cánh đồng chiến trận; là chứng nhân cho những thành trì bốc cháy, những tượng thần đổ sụm, những vương triều, bá nghiệp tan hoang… Nghe trumpet là nghe sự đồng vọng của tiếng kèn chiến thắng Aeschylus từng nghe rền vang trên eo biển Salamis ngập xác quân Ba Tư, tiếng kèn cay đắng đi cùng Seneca trong đám tang Claudius, tiếng kèn trong đại mộng của Joan trên đảo Patmos lưu đày, trong thời đại tăm tối nhiễu nhương của chàng điên Hamlet và trong tâm tưởng của người nhạc sĩ xứ Eisenach trên bản thảo Brandenburg Concerto No.2 rực rỡ huy hoàng… Bí ẩn của tiếng kèn trumpet phải chăng nằm ở chỗ đó?
 
...Thành phố mùa hè 1972 ngập người di tản từ bên kia đèo Hải Vân đổ về. Những đêm hỏa châu rì rầm giọng đại bác. Tiếng kèn quen thuộc của người lính da đen cũng bặt, chỉ còn tiếng còi báo động nối tiếp còi báo yên, luân phiên nhau. Vẫn mấy thanh niên trong phố, họ nói đám lính Mỹ ưa la cà các bar rượu quanh căn cứ cho biết anh lính đen hay chơi trumpet đã hết hạn nghĩa vụ và được xuất ngũ về nước; nhưng cũng kể, có khi lè nhè say lại bảo anh ta vướng mìn trong một cuộc tuần tra tầm phào nào đó gần Chu Lai, chết tan xác rồi! Tôi về nhà thuật lại cho mẹ nghe, mẹ tôi chẳng nói gì, chỉ im lặng, lắc đầu. Tôi không biết phải tin vào lời kể nào. Nhưng có một đêm, tôi mơ thấy cây kèn trumpet của người lính da đen bị trúng mìn méo mó nằm vướng trên ngọn cây, người ta phải lấy cù nèo móc nó xuống như móc một thứ trái chín, máu tươi từ thân kèn nhỏ ra ròng ròng như mật. Tôi vẫn thích nghe trumpet, gần như suốt từ những ngày tháng xa xôi thơ ấu ấy cho đến bây giờ. Chỉ có điều, chưa một lần nào tôi chạm tay vào cây trumpet và cũng chưa bao giờ tôi nghĩ mình sẽ trở thành một người chơi kèn. Với tôi, dường như trumpet đã biến thành một thứ nhạc cụ linh thiêng chỉ dành cho những người được chọn, tiếng kèn của những sứ giả mượn âm nhạc để dự báo niềm vui cũng như hiểm họa. Khi những hân hoan, những mơ ước và khát vọng của con người đã tàn lụi, tiếng trumpet sẽ khải thị những miền hy vọng mới. Khi những xấu xa, ác độc, những tham vọng tăm tối trong nhân gian bắt đầu vượt ngưỡng, trumpet sẽ trở thành điềm gở, nó dự báo cho con người những sụp đổ tan hoang.
 
Đêm mưa nhẹ, chỉ thoáng chốc khiến không khí càng thêm oi nồng bức bối. Nằm nghe lại một lần nữa “Quiet City” của Copland. Nghe bước chân của chính mình vang vọng trong ký ức, đi ngược con đường mình vẫn thường đi, về phía cánh cửa mà tiếng trumpet khắc khoải của bản nhạc vừa mở ra. Ở đó có một hoàng hôn vĩnh cửu, một người lính vĩnh cửu đang say sưa thổi trumpet cho một đứa bé vĩnh cửu ngồi nghe. Mặc cho những mất mát, mặc cho những âu lo, những nát tan vụn vỡ, chỉ có tiếng kèn khi chói sáng khi mờ tối dắt tôi đi. Trong lòng giếng đêm sâu hoắm này, trong hơi thở bất an mà dịch bệnh vừa trói chung tất cả lại trong gọng kìm hắc ám của nó, giống hệt âm nhạc Copland, sự nín bặt của thành phố đã bắt đầu quen với sự cách ly khoác lên mình nó vẻ ảm đạm của một mộ địa, có cảm tưởng mỗi cá nhân dường đang đều tự thu mình lại trong chiếc hố đơn độc cùng một tiếng kèn tăm tối nào đó của riêng mình. Trumpet, giọng kèn của thiên sứ, giọng kèn của người được chọn, người báo tin, ngươi muốn báo gì với ta đêm nay?
Trần Thanh Sơn (6.2021) 

* “Nằm nghe giữa trời, giòn vang tiếng cười, điệu kèn ai buốt trong tôi...”(Chiếc lá thu phai - Trịnh Công Sơn)
 
-Aeschylus (khoảng 525 - 456 TCN): Nhà soạn kịch Hy Lạp cổ đại, nổi tiếng với vở kịch Người Ba Tư”.
-Luciua Annaeus Seneca (4 TCN - 65): Triết gia người La Mã thuộc trường phái khắc kỷ, là chính khách, nhà biên kịch, nghệ sĩ hài, một tên tuổi lớn của văn học La Mã.
-Joan of Patmos: Còn gọi là Joan - người mặc khải hay Joan - nhà thần học. Được xem là tác giả của sách Khải huyền, cuốn sách cuối cùng của Tân Ước.
-Aaron Copland (1900 - 1990): Nhà soạn nhạc hiện đại người Mỹ.

 
Ảnh trên: From Red Trumpet (Mitko Zhelezarov)
 

Không có nhận xét nào: