Đêm qua tôi mơ thấy K - người bạn
thời thơ ấu. Tôi mơ thấy mình đạp xe với K trên con đường nhỏ, quanh
co, bên phải chúng tôi là những triền đồi với dăm vạt sắn còi cọc
chen giữa những đám cỏ ống um tùm và bên trái là dòng sông hẹp chảy
len qua những bãi bồi cát trắng lấp lóa dưới nắng trưa, xa nữa là
bóng núi tối thẫm. Có một cơn mưa đang hình thành ở góc trời, những đám mây
đùn lên đe dọa, đen kịt như khói của một đám cháy lớn. Nếu chạy không thoát khỏi
cơn mưa này, mình sẽ không kịp qua sông được, tôi nghe tiếng K nói văng vẳng bên
tai, rồi thấy nó vun vút đạp xe vượt qua tôi, thật nhanh. Trong mơ, tôi nhớ
mình rất mệt, dù đã gắng hết sức nhưng tôi vẫn không thể theo kịp K.
Tôi thấy tôi đứng lại giữa đường, lạc lối, một mình giữa chiều tối cùng cơn giông
đang ào ào đuổi đến sau lưng.
Những hình ảnh trong giấc mơ này có
lẽ trồi lên từ ký ức của chuyến đi về quê ngoại với K. Đó là năm tôi học
lớp 8, mà cũng có thể, lớp 9, tôi không nhớ rõ. K học cùng lớp với tôi.
Ba nó mất sớm, mẹ mở tiệm may một mình xoay xở nuôi bốn đứa con mà K
là anh đầu. Nhà K đang đói. Những năm sau chiến tranh thiếu thốn kinh
khủng, nhà ai cũng đói cũng nghèo. Chẳng còn vải đâu để người ta may mặc,
tiệm may nhà K trở thành tiệm sửa vá quần áo cũ là chính, và với
nguồn thu nhập đương nhiên ít ỏi đó, dăm bữa nửa tháng K phải đạp xe
về quê xin viện trợ từ họ hàng bên ngoại, lúc là túm khoai lúc là
bao sắn. Một lần cao hứng, K rủ tôi cùng đi.
Với chuyến đi về quê ngoại của K,
có thể xem đó là chuyến đi bằng xe đạp xa nhất mà tôi từng thực
hiện trong đời. Chúng tôi đạp xe gần suốt một ngày, đi qua những cánh đồng
hẹp nằm ép giữa những khúc lượn vòng của dòng sông, đi qua những xóm thôn nghèo
nàn buồn thỉu của miền Trung dưới nắng trưa, những lô cốt còn đen ngòm dấu
tích lửa đạn, những hố bom cũ, những bãi hoang, những thân cầu gãy gục, chiến
tranh chỉ mới vừa kết thúc được vài năm, dấu vết khắc nghiệt của nó còn vương
vãi khắp nơi. Xuyên qua cơn mưa giông buổi chiều, ướt như chuột lột, đến tận
chiều tối K và tôi mới đến được bến sông quê nó và may mắn lên kịp chuyến đò ngang
cuối cùng. Sau này K mới cười hề hề tiết lộ với tôi một điều mà lúc đó tôi
không hề hay biết, rằng nếu trễ chuyến đò ấy, có thể hai đứa sẽ phải ôm bụng
đói suốt đêm ngủ vật vạ ngoài đường!
Quê ngoại của K nằm bên kia sông,
trên cánh đồng hẹp có hình dạng một tam giác, cạnh đáy chạy suốt theo
triền sông khá dốc, đặc trưng của miền trung du, xóm làng cũng tập
trung ở đấy, còn hai cạnh kia được bọc kín bởi hai dãy núi cao, và nếu
không kể lối đi hẹp men theo con sông xuôi về hướng hạ lưu, chúng gần như
ngăn cách hẳn cánh đồng nhỏ tủn ấy với thế giới bên ngoài, Trong ký
ức tôi, quê ngoại của K gợi tưởng đến một thứ u cốc trong tiểu thuyết kiếm hiệp nằm tách biệt khỏi
thế giới con người, hoặc giả, một thiên
thai của Lưu Nguyễn từng có thật trên cõi trần.
Tôi theo K “nhập u cốc” trong
cảnh ngày tàn nhập nhoạng. Đường đất dẫn vào thôn mát lạnh hơi mưa, xóm làng nhiều nhà đã lác đác lên đèn, thấp thoáng bóng người, tiếng
cười nói lao xao sau bờ dậu và hương thơm rất nhẹ của một loài hoa
mà tôi chẳng biết là hoa gì. Nhà ngoại K nằm khoảng giữa thôn, hai
gian nhà vách ván, nhỏ hẹp. Mệt nhoài và đói meo sau gần một ngày đạp
xe mà chỉ có khoanh cơm nắm muối mè ăn từ xế trưa, sau khi tắm rửa,
tôi và K được “chiêu đãi” món bánh bèo trong gian bếp nhỏ dưới ánh
sáng tù mù của ngọn bấc thắp trên đĩa đèn dầu phộng. Bánh bèo ở quê K những
năm đói kém ấy chỉ đơn thuần là những chén bánh to tú hụ được hấp
từ gạo đỏ xay nhuyển, khi ăn ta rắc đậu phộng rang giã dập kèm hành
phi cũng với dầu phộng rồi chan thêm chút nước muối pha màu nước nắm. Thế nhưng,
cho đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ như in hương vị ngon lành và cảm giác
sung sướng hạnh phúc của mình khi được ngồi trong chái bếp cay mù củi
ướt đó ngốn ngấu ăn liền một lúc gần nửa chục chén bánh quê nghèo!
Thói lãng mạn, thi vị hóa đời
sống nông thôn thường là tật của những người vốn chỉ sống và lớn
lên ở thành thị, đặc biệt là với một thằng bé chưa bao giờ
được thực sự có một quê nhà như tôi ngày ấy. Hôm sau, dù ánh sáng
ban ngày đã lột bỏ chiếc áo ảo diệu của đêm huyền để phơi bày toàn
thể bộ dạng nghèo khó xác xơ của ngôi làng, thế nhưng cảm quan của tôi vẫn cứ khăng khăng nghiêng về phía nhìn cuộc sống những người dân ở đây bằng đôi mắt thưởng ngoạn nhàn du!
Công bằng mà nói, phong cảnh quê ngoại của K tuyệt đẹp. Buổi sáng hôm ấy, K đưa
tôi vào chân núi chơi. Hai đứa leo lên tận chỗ con suối đang tung bọt
nước trắng xóa trên vách núi để tắm rồi ngồi hàng giờ ngắm cảnh, ngắm ngôi làng
nhỏ nằm trên khúc lượn vòng của dòng sông lấp lánh nắng bên dưới.
K chỉ một ô vuông xám nằm trong đám nhà cửa nhỏ xíu ấy rồi hào
hứng bảo: Nhà ngoại mình kìa! Giọng nói đầy tự hào của K làm tôi bỗng dưng thấy ghen tị với nó.
Nhiều chục năm sau này, một lần
bất chợt nhớ lại chuyến đi ngày cũ, tôi đã vào google-map lần mò
tìm lại hành trình và nơi chốn mình đã từng đi và từng đến, nhưng
chịu chết! Thời gian thăm thẳm chẳng để lại nhiều dấu vết, nhưng tệ
nhất, ngày xưa ấy, tôi đã quên không hỏi K tên ngôi làng quê ngoại của
nó. Thế gian biến cải, vật đổi sao dời, với những gì còn sót lại của ký
ức, kèm với bản đồ, tôi chỉ có thể cho rằng, quê ngoại của K nằm đâu đó
trong vùng thượng của sông Vu Gia.
Chuyến đi chơi với K có
thể đã là một trong số ít ỏi những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu của tôi
ví như nó đừng có một kết thúc không mấy mỹ mãn. Đêm trước khi về lại
thành phố, tôi và K ngồi chơi với ngoại và dì dượng của nó ngoài
hiên cho đến tận khuya. Khi chuyện đã vãn, cả nhà đang chuẩn bị đi ngủ
thì có tiếng ồn ào quát tháo, tiếng khóc, tiếng chó sủa rộ lên ở phía
cuối thôn. Kế đó là tiếng súng nổ chát chúa mấy phát liền, tiếng
chân chạy huỳnh huỵch, rồi tiếng hò hét túa ra phía cánh đồng. Một
người đàn ông cầm súng chạy ngang hàng dậu trước nhà giọng bực
tức “Thằng ngụy ác ôn chạy thoát mất rồi”. Dượng của K sợ hãi đóng cửa hối mọi người đi ngủ rồi vội vã tắt đèn. Đêm đó tôi khó ngủ quá. K lên giường là ngáy pho pho, còn tôi, một
cảm giác thắc thỏm vô hình cứ đè nặng trong lòng, đến gần nửa đêm mà thi
thoảng vẫn còn nghe có tiếng người la ó quát gọi nhau ngoài đồng. Tôi nhìn qua
liếp cửa sổ, mây từ đỉnh núi như một khối dung nham xám ngoét, hung hiểm, đang
chầm chậm chảy xuống lấp đầy các khe hẹp, lũng sâu. Với nỗi khắc khoải trong lòng, tôi tưởng chừng nó sẽ tràn qua cánh đồng,
lấp kín cả sông suối, lấp luôn thôn làng lặng câm như đang nín thở phập phồng ngóng tin. Tôi đếm từ một đến một trăm, rồi từ một trăm đến một nghìn, cố ru mình ngủ...
Buổi sáng chuẩn bị lên đường về, khi
giúp K ràng kỹ bao khoai và đậu vào sau yên xe, tôi nghe dượng của K nói người
bị công an và xã đội xuống vây bắt đêm qua là con trai một bà cụ ở trong thôn,
họ bảo anh ta làm cảnh sát ở Đà Nẵng nhưng khai gian là đi học, hơn năm
nay chạy về đây lẩn trốn cải tạo. Tôi chưa kịp hỏi gì thì dượng đã
nói thêm, họ vẫn chưa bắt được, chắc anh ta đã kịp chạy tót lên núi hoặc giả đã thoát
được ra sông. Rồi dượng thở dài, mấy tay xã đội bảo có dấu máu, chắc anh ta bị
thương, nghĩ cũng tội, nhưng biết làm sao… Tôi và K qua đò. Tôi ngoái nhìn ngôi
làng nhỏ lại phô bày vẻ xác xơ khốn khó của nó ra dưới nắng mai, tư dưng thấy
buồn buồn...
Đêm qua tôi mơ thấy K - người bạn
thời thơ ấu, mơ thấy tôi đạp xe với K trên con đường nhỏ có lẽ hướng về
quê ngoại của nó. Nghe bảo sau này K chết vì ung thư vòm họng. Người chết đi sẽ
kéo theo toàn bộ dĩ vãng của họ xuống mồ, và đồng thời cũng kéo luôn những câu
trả lời cho những câu hỏi mà có thể một ngày xưa nào đó ta chưa kịp nêu lên với
họ. Cái vùng quê nhỏ xíu mà tôi từng có lần đến với K nhưng quên không chịu hỏi
tên đối với tôi sẽ mãi mãi trở thành một vùng đất vô danh tính, một vùng mất
tích trong vô vàn những vùng mất tích của ký ức ta. Cũng đành vậy. Còn một câu
hỏi tôi tưởng đã khuất lấp, đã vĩnh viễn lãng quên, hôm rồi khi đọc cuốn sử
liệu ngắn “Một khoảnh…” của Tạ Chí Đại Trường, nay bất giác lại trở về bám riết lấy tôi:
người đàn ông bị truy đuổi năm xưa, anh xui rủi bị bắt lại hay đã may mắn thoát được về
phía tự do?
Trần Thanh Sơn
(4.2020)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét