* George Benjamin viết về Pierre Boulez.
Có lần tôi hỏi một nhóm các nhà soạn nhạc trẻ mà tôi đang giảng dạy xem liệu có thứ âm nhạc hiện đại nào khiến họ không ưa chăng. Hơn một nửa số người đã nhắc đến Pierre Boulez. Ban đầu tôi sửng sốt vì sao họ lại có thể chối bỏ một nhà sáng tạo âm nhạc vĩ đại đến thế trong thời đại của chúng ta, nhưng có lẽ tính cách ưa chỉ trích quyết liệt của con người này là nguyên nhân gây ra niềm ác cảm ở họ. Sau rốt, chính Boulez là người từng tuyên bố không chút mỉa mai rằng bất cứ nhà soạn nhạc nào không thừa nhận sự cần thiết của hệ thống nhạc 12 âm của Schoenberg thì đều “vô dụng”, đồng thời chính là người đã viết các bài báo cay độc như “Schoenberg đã chết” để chỉ trích cách tiếp cận của nhà soạn nhạc người Áo này chỉ vài tháng sau khi ông qua đời năm 1951.
Nhiều nhà soạn
nhạc trẻ đã đọc các bài ông viết nhưng không phải lúc nào họ cũng biết đến âm
nhạc của ông. Mà khi đọc những bài bút chiến gay gắt ấy, khó ai có thể hình
dung ra vẻ đẹp thuần túy trong các tác phẩm của ông.
Nhà soạn nhạc
Messiaen, thầy dạy của Boulez, trước đây thường nói rằng trong sâu thẳm, Boulez
là một nhà thơ. Messiaen cũng tin rằng sẽ phải mất một thời gian dài để công
chúng có thể thực sự hiểu được âm nhạc của Boulez bởi vì nó có sự nhạy cảm rất
đặc biệt và độc đáo.
Trước khi theo học
thầy Messiaen vào cuối những năm 1970, tôi đã nghe tiếng Boulez rồi. Lớn lên tại
Vương quốc Anh, tôi đã xem các bộ phim tài liệu tuyệt vời của ông trên kênh
BBC2 do Barrie Gavin đạo diễn. Boulez là nhạc trưởng chính của Dàn nhạc giao hưởng
BBC vào đầu những năm 1970, và họ đã cùng nhau giới thiệu một chuỗi các chương
trình gợi cảm hứng về âm nhạc hiện đại. Các tác phẩm của Stravinsky,
Schoenberg, Webern, Berg, Ives, Bartók, Stravinsky, Varèse, Messiaen và của
chính Boulez đã được biểu diễn và phân tích kèm theo những thông tin về bối cảnh
ra đời của chúng. Chương trình này đã tác động lớn đến tôi thời niên thiếu,
song thật đáng tiếc, những chương trình như vậy hiện nay không còn nữa. Tôi
cũng nhớ đã nghe ông chỉ huy Violin Concerto của Berg và Rite of Spring cùng
Dàn nhạc Thanh niên Quốc gia (National Youth Orchestra) tại Festival Hall,
London và tại Proms, nơi ông đặt một tác phẩm mới của Ligeti bên cạnh sáng tác
của chính mình.
Thầy Messiaen
thường rất tự hào mỗi khi nhắc đến người học trò cũ của mình. Thầy coi ông là một
tài năng lớn, đáng nể trọng, mặc dù khi còn trẻ “anh ta giống như một con sư tử
bị lột da vậy”. Quả thực, thời thanh niên, Boulez là người rất nóng tính.
Ông công kích bất
cứ cái gì trong tầm mắt, ngay cả những thầy dạy ông như René Leibowitz, một môn
đồ của Schoenberg, người đã có công đầu trong việc đưa nhạc 12 âm tới Paris. Có
thời điểm Boulez thậm chí còn quay sang chống lại cả thầy Messiaen, người đã hết
lòng động viên và giúp đỡ ông; phải mất năm năm, mối quan hệ giữa họ mới được
khôi phục.
Boulez lớn lên
trong thời kỳ nước Pháp bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Khi ông 20 tuổi, Thế chiến
II kết thúc. Lục địa châu Âu phải tái thiết lại từ đầu. Thầy Messiaen thường nhắc
lại chuyện hai thầy trò cùng nhau đi tàu điện ngầm về nhà sau các buổi lên lớp,
những lúc ấy Boulez thường hỏi: “Ai sẽ đưa âm nhạc vào đúng chỗ đây? Trong một
tình trạng khủng khiếp như thế này.”
Và thầy Messiaen
đáp lại: “Anh chứ ai.” Từ những ngày đầu tiên, Boulez đã nghĩ mình phải gánh
vác một sứ mệnh như Napoleon trong lĩnh vực âm nhạc và vai trò văn hóa của nó.
Tham vọng của ông không dừng lại ở việc sáng tác nhạc mà còn phải thay đổi thái
độ của công chúng, của các thiết chế ở Pháp và sau đó là ở thế giới phương Tây
rộng lớn hơn về chủ nghĩa hiện đại. Ban đầu, ông theo đuổi mục tiêu này bằng
cách tích cực truyền bá ý thức hệ mới. Trong giai đoạn cuối thập niên 1940, các
tác phẩm thuộc Trường phái Vienna Thứ hai1 và của các nhà soạn nhạc như Bartók
và Varèse không hề được chơi tại Paris; nhưng nhờ công lao của Boulez mà giờ đây
chúng đã trở thành một phần trong danh mục hòa nhạc quốc tế.
Trên cương vị nhạc
trưởng, cách tiếp cận của ông đối với các kiệt tác buổi đầu của chủ nghĩa hiện
đại đã có ảnh hưởng to lớn đến quan điểm của các nhà soạn nhạc trẻ cũng như thị
hiếu của thính giả đối với dòng nhạc này. Ông đã cho ra mắt những bản thu tuyệt
diệu của hàng trăm tác phẩm, trong đó có tác phẩm của các đồng nghiệp đương thời
nổi tiếng như Carter, Ligeti, Kurtág, Stockhausen, Berio và Birtwistle. Những bản
thu này đã đem lại nguồn cảm hứng và giúp đỡ nhiều thế hệ nhà soạn nhạc trẻ.
Bằng cá tính mạnh,
danh tiếng, và sức hấp dẫn bẩm sinh, Boulez làm được những điều lớn lao, vượt
ra ngoài khuôn khổ của những bản thảo âm nhạc. Nhờ ông mà Paris mới có phòng
hòa nhạc Philharmonie de Paris; có phần còn lại của không gian âm nhạc Cité de
la Musique; có nhóm hòa tấu Ensemble Intercontemporain và có viện nghiên cứu âm
nhạc IRCAM đóng tại Trung tâm Pompidou.
Tuy nhiên, trong
các nhạc phẩm do ông sáng tác, Boulez lại rời bỏ trường phái 12 âm, niềm đam mê
ồn ào thời trẻ của nhà soạn nhạc; theo thời gian, ông dần dần tách khỏi trường
phái ấy và giờ đây ông nhìn nó bằng ánh mắt hoài nghi. Theo tôi, các tác phẩm
xuất sắc nhất của ông không phải là những tác phẩm viết thời kỳ đầu mà là những
tác phẩm được viết khi những nền tảng tạo nên phong cách ban đầu của ông được xử
lý theo hướng tự do và phóng túng hơn. Tôi tin rằng chỉ khi nào ông chấp chận
mình là một nhà soạn nhạc Pháp thì khi đó ông mới tìm được tiếng nói đích thực
của mình.
Le Marteau sans
maître (1953-57, Chiếc búa vô chủ) là một bước đột phá. Ở tác phẩm này, ta có
thể nhận thấy ảnh hưởng sâu sắc của âm nhạc ngoài châu Âu, đặc biệt là âm nhạc
từ châu Á và châu Phi. Điều đó làm thay đổi một cách cơ bản độ vang, cảm nhận về
thời gian và phương hướng trong âm nhạc cũng như quan điểm và đặc tính biểu cảm
của nó. Boulez chắc chắn không phải là nhà soạn nhạc Pháp đầu tiên tiếp nhận và
bị hấp dẫn bởi âm nhạc phương Đông – thứ âm nhạc gây ảnh hưởng sâu sắc đối với
cha đẻ của âm nhạc hiện đại là Debussy và các thế hệ kế tiếp – nhưng Boulez đã
đưa nó đi xa hơn. Và cuộc hôn nhân thú vị giữa vũ trụ âm nhạc chuỗi vốn đã hết
sức mới mẻ của ông với thế giới âm nhạc ngoài châu Âu đã tạo ra một phong cách
độc nhất.
Với tôi, bức
chân dung nhà thơ Mallarmé mà ông vẽ nên qua bản giao hưởng Pli selon pli (Nếp
gấp theo nếp gấp) hoàn thành vào đầu những năm 1960 là một kiệt tác vĩ đại hơn,
và trong các thập niên tiếp theo, ông đã sản sinh ra hết viên ngọc này đến viên
ngọc khác: Eclat/Multiples, Cummings Ist der Dichter, … explosante-fixe…, Sur
Incises... Không có tác phẩm viết cho dàn nhạc thời hậu chiến nào xuất sắc hơn
Notations, năm bức vẽ bằng dàn nhạc quá ư tỉ mỉ, tất cả đều được dựa trên các
tác phẩm 12 âm đơn giản mà ông viết cho đàn piano những năm 20 tuổi. Là nhà soạn
nhạc kiêm nhạc trưởng có thể được coi là quan trọng nhất kể từ Mahler, Boulez
hiểu biết về dàn nhạc tường tận hơn bất kỳ đồng nghiệp nào, và các tác phẩm
tiêu biểu ngắn gọn và gây sững sờ này của ông mang một dáng vẻ hoa mỹ và tao
nhã đến say sưa.
Boulez chỉ công
bố khoảng 30 tác phẩm trong suốt cuộc đời mình, tác phẩm cuối cùng ra mắt cách
đây khoảng một thập niên. Trong buổi tối đầu tiên ngồi cùng nhau hồi giữa những
năm 1980, tôi hỏi liệu ông có lời khuyên nào dành cho tôi chăng. Ông đáp:
“Không, ngoại trừ một điều: viết đi, cứ viết thật nhiều nhạc vào.”
Giờ đây ở tuổi
90 nhìn lại, có lẽ ông cảm thấy rằng mình nên viết nhạc nhiều hơn. Nhưng tôi ngờ
rằng ông chưa khi nào dễ dãi với nàng thơ của mình. Ông là người có đầu óc tinh
tế và nghiêm khắc. Với một trí tuệ đầy hoài nghi và cực đoan, với một trí tưởng
tượng nhạy bén về âm thanh đến nhường ấy, việc soạn nhạc chắc hẳn luôn là một
công việc gian nan. Thế giới ngày nay không cần một lượng khổng lồ các tác phẩm
như ở thời đại của Haydn. Cái mà thời đại này cần là các tuyên ngôn thiết yếu,
các tác phẩm phi thường và độc đáo. Và rõ ràng Boulez đã đáp ứng được những đòi
hỏi đó.
Với công việc chỉ
huy và thu âm mà ông tiến hành cùng các dàn nhạc và học viện ở Paris, London,
New York và Lucerne, Boulez đã tìm được một sự cân bằng có hiệu quả với mình.
Ông yêu thích công việc chỉ huy và giữ mối liên hệ với Dàn nhạc Cleveland và
Dàn nhạc giao hưởng Chicago ở Hoa Kỳ cũng như với Dàn nhạc BBC và Dàn nhạc Giao
hưởng London. Ông cũng dành cho nhóm hòa tấu Ensemble Intercontemporain sự gần
gũi và cống hiến như với gia đình. Ông còn có cách diễn dịch Wagner đầy mới mẻ
trong dịp kỉ niệm bộ opera Ring tròn 100 năm tại Bayreuth. Những thành tích mà
ông đã đạt được còn nhiều hơn những gì mà người khác làm trong ba đời cộng lại.
Cuối cùng thì
tôi cho rằng Boulez là một người lạc quan vĩ đại bất chấp những tăm tối đã phủ
bóng lên những năm đầu đời của ông. Kết lại thì niềm tin của ông rất giản dị:
âm nhạc ngày nay phải khác biệt với âm nhạc trong quá khứ. Đó là một lẽ tự
nhiên. Âm nhạc phương Tây tiếp tục tiến triển, chuyển hóa và thay đổi. Thật sai
lầm cho những ai không tán thành với quan điểm đó!
George
Benjamin (Ngọc
Anh dịch)
Nguồn:
George Benjamin on Pierre Boulez: 'He was simply a poet', The Guardian, Friday
20 March 2015.
Note
1:
Pierre Boulez (sinh ngày 26.3.1925 – mất ngày 5.1.2016): nhà soạn
nhạc hiện đại, nhạc trưởng lừng danh người Pháp. Tác giả bài viết George Benjamin là nhà soạn nhạc người Anh sinh năm 1960, một
học trò của Olivier Messiaen. Bài viết này được thực hiện lúc Pierre Boulez 90
tuổi.
Note
2:
Là nhà soạn nhạc nhưng cũng đồng thời là cũng một nhạc trưởng xuất sắc, khi ghi
âm những tác phẩm viết cho dàn nhạc của mình, Pierre Boulez luôn là người
trực tiếp cầm đũa chỉ huy. Có lẽ cũng vì vậy, lúc sinh thời số lượng nhạc phẩm Boulez được ghi âm dưới sự chỉ huy của các nhạc trưởng khác khá hiếm hoi, thậm chí để
cho thấy sự khác biệt, một trong những đĩa này còn tương lên bìa cái titre mà theo
tôi là khá humor: “Boulez sans Boulez” (Boulez không có Boulez)! Trong bộ sưu tập
nhạc số của tôi, phần nhạc mục Boulez có khoảng 30 CD, nhưng chỉ có vài đĩa do các
nhạc trưởng “không phải Boulez” cầm đũa như: Hans Rosbaud, David Robertson, Daniel
Barenboim, Diego Masson, Daniel Kawka… Có lẽ sắp tới đây chúng ta sẽ có dịp được
nghe nhiều hơn âm nhạc Boulez với cách cảm nhận kiểu khác của các cây đũa mà lâu nay, do
sự hiện diện khổng lồ của ông, họ không có dịp và… không dám thể hiện!
Riêng về George
Benjamin, tôi chỉ mới được nghe một vài tác phẩm của thuộc dạng nổi tiếng ông
như “At First Light”, “Ringed by the Flat Horizon”, đặc biệt thích
thú với “Duet cho piano và dàn nhạc”, một tác phẩm mang tính bonus nằm ở phần
cuối bộ đĩa đôi opera “Written on Skin” của Benjamin, được diễn tấu bởi Pierre-Laurent
Aimard. Đây cũng là tác phẩm được George Benjamin viết tặng riêng cho dương cầm
thủ nổi tiếng này. (TTS)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét