Thứ Ba, 23 tháng 4, 2019

Con-tàu-chìm

 
Ở chỗ đó ngày xưa là con lộ đất đỏ chạy ngoằn ngoèo theo triền dốc dẫn xuống một lũng hẹp nằm kẹp giữa hai sườn đồi, một dốc đứng đầy đá tảng và những bụi sim gai mọc lúp xúp, một thoai thoải hơn, là những thửa vườn cằn khô ít được chăm sóc và ngăn dậu sơ sài bằng những thân cây khô kết hợp với đá, với rào kẽm gai; xa hơn một chút, từ đỉnh đồi chạy vào sâu hơn nữa về phía bên kia sườn dốc là ngút ngàn rừng cao su. Nhà của ông nằm cuối con lộ, xem như gần tận đáy cái lũng hẹp ấy, vì chỗ thấp nhất là cái khe đá cuồn cuộn nước vào những lúc mưa nhưng cạn trơ lòng ngay lập tức khi trời vừa tạnh ráo. Căn nhà gạch cũ chỉ có hai gian, phần bếp và kho được dựng thêm vào, lắp ghép tạm bợ bằng ván ép và tôn cũ, nhìn từ xa, đặc biệt là từ đầu dốc, nó giống hệt một con tàu nhỏ ọp ẹp với mũi tàu là cái mái tôn nhọn chĩa ra ở phía mặt tiền chỗ cửa ra vào, phần còn lại như đang chậm chạp chìm xuống và rệu ra thành từng mảng với tất cả sự thảm hại mà phần đuôi chắp vá của nó đang phơi bày. Tôi gọi căn nhà là con-tàu-chìm - và ông M. - chủ nhân của căn nhà ấy cũng thích thú với cách gọi như vậy: một con-tàu-chìm!
 
Tôi biết ông M. trong một dịp khá tình cờ. K. và Bình Hippy, hai người bạn văn nghệ tôi quen khoảng giữa những năm 80, một khuya kéo qua Đakao tìm tôi. Đó là chỗ tổ hợp hóa dược của bà cô họ mà tôi đang làm việc và nhận trực thêm vào ban đêm để kiếm tiền ăn học. Thời ấy tôi chưa biết uống rượu nhưng lại thích mê việc được ngồi cà kê dê ngỗng chuyện nghệ thuật trên rừng dưới biển với bạn bè. Cả bọn rủ nhau ra cái hẻm nhỏ trước cửa chợ Đakao lai rai gỏi vịt - món nhậu vỉa hè quen thuộc thời bao cấp đói nghèo luôn đi kèm với thứ rượu gớm chết: rượu cây lý!
 
Đã khuya, quán vắng teo. Chưa kịp ngồi vào bàn thì đã nghe tiếng ới gọi tên Bình, một gã thanh niên trạc tuổi tôi, tóc tai bù xù kính cận dày cộp đi cùng một người đàn ông cỡ ngoài bốn mươi mặc áo sơ mi vạt bầu bỏ ngoài dài thõng trên xe đạp cũng vừa trờ tới. Tôi thấy Bình reo lên, Trúc cận Trúc cận, hay quá, vào đây luôn đi! Tay thanh niên có biệt danh Trúc cận vui vẻ tấp vào, người đàn ông mặc áo vạt bầu đi cùng cũng lẳng lặng vào theo. Và đó là ông M. - người sẽ trở thành người bạn vong niên của tôi trong một khoảng thời gian không ngắn mà cũng chẳng dài, sau này.
 
Tôi nói sau này, vì tối hôm ấy, ông M. chẳng trò chuyện gì nhiều với tôi cả! Ngoài dăm câu giao đãi, phần lớn thời gian ông chỉ lặng im uống rượu. Chỉ sau này tôi mới biết ông là một tay chơi dương cầm có hạng. Chỉ sau này tôi mới biết ông là một người rất đỗi tài hoa. Chỉ sau này, những nét phác mù mịt về cuộc đời ông mà tôi nghe ra từ những tâm sự rời rạc ông vô tình thố lộ trong rất nhiều cuộc rượu giữa những cơn say mới dần được hình thành. Mồ côi cha mẹ sớm, một người họ hàng xa có thế lực đã gởi ông vào nội trú trong một tiểu chủng viện. Ở đó, ông được dạy dỗ ăn học đàng hoàng, người ta muốn hướng ông theo con đường tôn giáo, trở thành linh mục. Nhưng ông bảo, ông thấy mình quá thiếu vắng đức tin để có thể trở thành một người đi rao giảng Phúc âm. Ông bỏ ra ngoài làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Dạy nhạc, chơi đàn, yêu đương, thất tình, đi lính, vỡ mộng, sầu u, bất đắc chí… Và những gì gì nữa? (K. bảo dừng tin những gì ông M. kể, vì quá kiêu ngạo nên chắc ông ta chỉ nói về chiếc bóng to của mình ở trên vách. K. có vẻ không ưa ông M.).
 
Khoảng hơn tuần lễ sau đêm rượu trước cửa chợ Đakao, Bình kéo Trúc cận và ông M. ghé nhà tôi chơi. Ông nghe tôi hát một vài ca khúc mới viết, gật gù chẳng nói gì, nhưng ông rủ, khi nào rảnh lên nhà ông chơi, vào trong vườn ở tận Đồng Nai. Tôi nhận lời, mà nghĩ, chắc chẳng có dịp nào! Nhưng rồi sau đó, cứ mỗi lần xuống Sài Gòn, ông M. lại tìm tôi, khi ghé nhà Thủ Đức, khi ở chỗ tôi làm gần chợ Đakao. Có tí tiền thì đi uống rượu, không thì cà phê hoặc chỉ ngồi nói chuyện suông. Ông M. uống rượu như hũ chìm, tôi mới lẫm chẫm tập uống chẳng phải đối tượng thích hợp để đối ẩm với ông, thế nhưng chẳng hiểu sao thời gian đó ông cứ hay thích rủ tôi đi cùng. Tôi nghĩ, có lẽ ông quý tôi, vậy thôi!
 
Về phía mình, dù giao du thân thiết với ông M. nhưng lắm khi tôi vẫn cảm thấy ông quá kỳ khôi, xa lạ và bất toàn, thậm chí có lúc tôi còn thấy sợ ông. Ở ông, kể cả những lúc bình thường nhất, vẫn có cảm giác ông đang phải kiềm chế một nỗi bức bối vô hình nào đó đang cựa quậy vùng vẫy trong tâm hồn mình, hoặc giả, sự cố tỏ ra mình mạnh mẽ, mình có thể vượt qua mọi lỗ hổng đen ngòm của niềm cô độc cứ thường trực mở ra trước mắt, nên đôi khi trông ông có vẻ nặng phần trình diễn. Người ta bảo con người thường bị giăng mắc bởi những tấm lưới rối rắm phiền muộn do chính mình dệt nên rồi lại tự mình đánh lưới chính mình. Phải chăng ông M. đã tự mắc vào tấm lưới ấy của mình? Có lần tôi rủ ông đến tham gia CLB Sáng tác trẻ với tôi cho đỡ buồn. Ông và Trúc cận từ Đồng Nai xuống từ sớm. Ngồi xem sinh hoạt của CLB trong khán phòng Hội quán sinh viên xong ra ông nói với tôi: “Em chui vào chốn ấy làm khỉ gì? Vui chơi thôi, chứ nghệ thuật thì nhất quyết không thể bầy đàn như vậy”. Ông làm tôi cụt hứng và thấy mình quê một cục!
 
Lần đầu tiên tôi được nghe ông M. chơi đàn là ở nhà ông, trong con-tàu-chìm, đấy cũng là lần đầu tiên tôi và Bình Hippy đến đó. Căn nhà nhỏ của người đàn ông độc thân không bừa bộn như tôi nghĩ mà khá gọn gàng ngăn nắp. Bộ sofa bạc màu được giữ sạch, những chồng sách xếp ngay ngắn trên bàn, cây đàn piano cũ không tí bụi, chiếc thánh giá gỗ sáng bóng trên vách... Ông M. chiêu đãi chúng tôi cá nướng cùng món rượu gừng do ông tự ngâm cay đến xé họng. Thứ rượu quái dị này khi uống vào vị nồng xốc lên tận óc, chỉ ba bốn ly là bắt đầu thấy váng đầu hoa mắt. Ông M. thì uống liên tục. Ngà ngà say, ông ngồi vào đàn. Tôi không nghĩ ông đàn giỏi. Vì vậy, khi cây dương cầm cũ kỹ tuôn ra những dòng âm thanh chói lóa, thứ âm nhạc mà sau này tôi mới biết là của Prokofiev - nhà soạn nhạc ông đặc biệt yêu thích, tôi sững cả người. Không còn dáng vẻ u sầu bức bối như lúc bình thường nữa, ông trở thành một con người khác: đầu ngẩng cao, mắt sáng rực, dáng vẻ hăm hở của một con chim ưng đang bay thẳng vào trong gió lớn… Và ông quên hết thực tại, quên cả hai thằng bạn nhỏ là tôi và Bình Hippy đang say rũ ngồi rúm ró trên sofa ngó ông métamorphoser với cây đàn của mình!
 
Có bận thất nghiệp, sầu thối, chẳng biết làm gì, tôi thường rủ Trúc cận gióng xe lên chơi với ông. Khi thì ngồi bên hiên con-tàu-chìm hút thuốc nghe ông lèm bèm chuyện đời, khi thì gầy cuộc rượu uống tràn cho đến say bét rồi leo lên sofa nhà ông ngủ vùi. Đó là những tháng ngày bế tắt đến mụ mị. Tôi nhớ có lần cả bọn uống say rồi ở lại nhà ông. Đêm giông bão mịt mù, mưa quất đinh tai nhức óc lên mái tôn. Ông M. cứ ngồi lì bên dương cầm nốc rượu rồi gõ đàn như thể muốn đua cùng tiếng mưa, như thể căn nhà nhỏ của ông quả là một con tàu đang chìm tận đáy một xoáy nước khổng lồ giữa đại dương sâu thẳm mà tiếng đàn của ông là những tín hiệu cầu cứu đang được gửi đi trong tuyệt vọng…
 
Rồi những hoạt động âm nhạc cùng đám bạn mới trong nhóm sáng tác trẻ hút tôi đi, tôi ít gặp ông M. hẳn. Thi thoảng tôi biết ông có ghé nhà tìm tôi mà không gặp. Có lần ông để lại một tập thơ của François Villon, loại Livre de Poche, cùng mảnh giấy nhỏ ghi: “Tặng S. cuốn thơ đọc chơi quên sầu!”. Thời đó cũng chẳng có điện thoại gì để mà liên lạc hay gọi nói lời cảm ơn. Một khuya có lẽ đã say lem, ông ghé lại, than buồn. Tôi kéo ông xuống chợ kiếm một quán cóc rồi ngồi tiếp rượu ông cho đến gần sáng. Có lẽ đó là một trong những lần cuối cùng tôi ngồi uống rượu với ông, tôi nhớ mang máng như vậy… Khoảng năm 1989 tình cờ gặp Trúc cận, hắn bảo ông M. giờ tệ lắm, rượu chè say xỉn suốt, ông đã bán luôn căn nhà mặt tiền phố lớn ở Biên Hòa mà cha mẹ để lại. Tôi thấy buồn buồn nhưng không ngạc nhiên. Sự chọn lựa của mỗi con người trước định mệnh của mình đâu hàm nghĩa sự thành bại của họ đối với cuộc đời. Với ông M., cái quan trọng hơn cả có lẽ nằm trong cái hành động mà ông luôn khăng khăng cho rằng mình có quyền tự quyết: sống cái cuộc đời bất cần đời đầy vẻ thê thiết của mình! Trước khi xuất cảnh đi Mỹ, khoảng cuối năm 1991 hay 1992 gì đó, Bình Hippy có ghé tôi, hắn bảo nghe nói ông M. say rượu té xuống sông chết đuối hồi giữa năm, trước lễ 30.4 ít ngày. Tôi nghe mình thảng thốt buồn. Hỏi hắn biết mộ ông M. ở đâu không? Bình nói không, rồi thở dài sườn sượt, ông ấy uống nhiều quá!
 
Ở chỗ là con lộ đất đỏ ngoằn ngoèo dẫn xuống cái lũng hẹp nhà ông M. bây giờ chẳng còn dấu tích gì của ngày xưa cả. Mấy vạt đồi nhỏ ven quốc lộ được san phẳng làm khu công nghiệp. Trên khu vực có thể là cái sườn đồi ngày trước có những thửa vườn hẹp khô cằn của nhà ông M. giờ mọc lên những dãy nhà máy với ống khói vươn cao. Rừng cao su ngút ngàn thuở nào cũng bị đẩy lùi vào tít những dãy đồi xa. Mấy lần có dịp đi ngang chốn cũ, tôi chạy xe chầm chậm cố tìm lại những nét quen gợi nhớ ngày nào. Nhưng chẳng còn gì cả. Chớp mắt mà đã trên ba chục năm trôi qua. Người xưa bảo thương hải vi biến tang điền là vậy! Trong vũng tang thương dâu bể đổi dời này, chìm đắm không biết bao nhiêu những con người với những tâm hồn tuyệt đẹp từng qua lại xa gần với cuộc đời tôi. Ôi, ông M., căn nhà nhỏ và những cốc rượu gừng cay xé họng, tôi nhìn xuống đáy sâu đại dương ký ức của mình, như vẫn nhìn thấy nó giống lần đầu tiên đứng trên đầu dốc ngó xuống cái lũng hẹp hoang vắng và nói với ông: căn nhà y hệt một con-tàu-chìm!
 
Còn ít ngày nữa là đến 30 tháng 4. Tôi không biết rõ ngày mất của ông, nhưng nếu đúng như những gì Bình Hippy kể lại năm nào, đó chắc là một trong những ngày này. Xin xem đây là những dòng tưởng niệm gửi đến ông: Ông M., con-tàu-chìm và tiếng dương cầm dưới đáy biển…
Trần Thanh Sơn (4.2019)


Ảnh trên: From “Sinking Hat” (Dal Henderson)
 


Không có nhận xét nào: