Thứ Hai, 31 tháng 1, 2022

Phụ nữ viết nhạc


Giải Pulitzer âm nhạc năm 2021 vừa qua lại thuộc về một phụ nữ: Tania León, nhà soạn nhạc người gốc Cuba với tác phẩm viết cho dàn nhạc “Stride”. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, tính từ 2010, có vẻ Pulitzer bén duyên với hơi nhiều các nhạc sĩ nữ. Có thể liệt kê: 2010 Jennifer Higdon, 2013 Caroline Shaw, 2015 Julia Wolfe, 2017 Du Yun, 2019 Ellen Reid, và 2021 Tania León. Tỷ lệ 6/12 người trong chỉ hơn một thập niên là con số rất đáng kinh ngạc nếu so với trước đó, chỉ có 3 phụ nữ đoạt được giải này kể từ năm 1943 khi Pulitzer bắt đầu trao thưởng cho hạng mục âm nhạc. Đáng chú ý hơn, trong số 6 nữ nhạc sĩ vừa kể trên, trừ một vài tác giả mà danh tiếng gần như đã được giới yêu nhạc cổ điển đương đại thế giới nghe và biết đến nhiều như Wolfe, Higdon, hoặc León - với một sự nghiệp lâu dài và đồ sộ, còn lại là các nhà soạn nhạc có tuổi đời còn khá trẻ, thậm chí như Caroline Shaw với tác phẩm gần như là đầu tay và còn mới toe với giới mộ điệu bốn phương. Thời đại của các nhà soạn nhạc nữ đã tới chăng?

Các khảo cứu nhạc sử cho thấy, không chỉ đến bây giờ nữ giới mới bắt đầu có nhiều cá nhân thể hiện tài năng và sự sáng tạo của mình trong âm nhạc. Nếu kể từ Kassia (sinh năm 810) - tu viện trưởng một tu viện ở Constantinople thuộc đế chế Byzantine với những bài thánh ca ngày nay vẫn được hát trong nhà thờ Chính thống giáo - tính đến năm 1900, số lượng các nữ nhạc sĩ có những đóng góp nhất định vào nền âm nhạc cổ điển phương Tây đã đếm được con số không dưới nửa ngàn. Thế nhưng, ngoài một vài tên tuổi hay được nhắc tới trong các biên khảo về lịch sử như: Hildegard von Bingen, Francesca Caccini, Barbara Strozzi, Isabella Leonarda, Louise Farrenc, Fanny Mendelssohn, hoặc Clara Schumann, chúng ta chẳng biết gì về số còn lại; cùng với âm nhạc của mình, hầu như họ đã bị dìm vào bóng tối quên lãng. Đọc tiểu sử Mozart, trong chói lóa danh vọng của ông, có ai băn khoăn tự hỏi, đã đi về đâu cái cô bé có biệt hiệu là “Nannerl” cũng từng được xem là một thần đồng âm nhạc và từng song hành cùng cậu em thiên tài của mình thực hiện những chuyến lưu diễn được chào đón nồng nhiệt khắp trời Âu? Sự phân biệt giới tính, kỳ thị, xem thường khả năng tư duy sáng tạo âm nhạc của phụ nữ cùng quan niệm cho rằng âm nhạc đối với phụ nữ chỉ mang tính chất trang trí, một thứ hương hoa để thêu thùa làm đẹp cho chính họ cũng như những phòng khách thượng lưu mà thôi, đã khiến biết bao nhiêu tài năng âm nhạc nữ giới sớm bị hủy hoại.

Trong Musicalisches Lexicon - được xem là cuốn từ điển đầu tiên về âm nhạc và tiểu sử các nhà soạn nhạc, các nghệ sĩ biểu diễn do Johann Gottfried Walther biên soạn xuất bản năm 1732 - chỉ có 6 phụ nữ được nêu danh. Còn History of Music (1776) của Charles Burney, ngoài một vài nữ ca sĩ opera, 2 nhà soạn nhạc nữ duy nhất được nhắc tên là Francesca Caccini và Barbara Strozzi. Chẳng biết khởi sự từ đâu, từ những năm 1800, báo chí âm nhạc Đức bắt đầu xuất hiện thuật ngữ Damenmusik (Âm nhạc của phụ nữ), ngữ nghĩa là thế nhưng lại thường chỉ được sử dụng để nói về các nữ ca sĩ. Trong một bài báo, một nhà phê bình giấu tên hài hước cho biết ông ta đã tiếp cận bản piano sonata của một nhà soạn nhạc nữ với “cảm giác khiếp đảm”, rồi cũng cho biết việc “tiếp cận” này chỉ nhằm để bản thân thấy ngạc nhiên một cách thú vị trước một ngoại lệ đối với quy tắc “Damenmusik” (!). Cùng đà suy nghĩ đó, bất chấp sự gia tăng số lượng phụ nữ sáng tác nhạc trong thế kỷ 19, Nhạc viện Paris vẫn tiếp tục cấm phụ nữ tham gia các lớp hòa âm và sáng tác mãi cho đến những năm 1870. Trong ấn bản đầu tiên 1879, Từ điển âm nhạc Grove chỉ đưa vào tên của 29 nhà soạn nhạc nữ, và Illustrierte Musikgeschichte - tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và thường được biết đến với tên gọi Lịch sử Âm nhạc (1882) - Emil Naumann còn tự tin đưa ra nhận định: “Mọi sáng tạo nổi tiếng trong âm nhạc đều là tác phẩm của đàn ông” (1).
 
Dù các cải cách xã hội cùng phong trào nữ quyền thời hiện đại đã mở ra các cơ hội mới cho phụ nữ trong hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp, thế nhưng, cho đến tận hết thế kỷ XX, không phải tất cả những vấn đề nêu trên đều đã được giải quyết. Nhà soạn nhạc Ernst Krenek cho biết khi tham gia giảng dạy tại Đại học Vassar vào năm 1939, ông đã được người chủ nhiệm bộ môn lưu ý không dạy hệ thống dodecaphony cho các sinh viên nữ, những người được mô tả là “đám tài tử”, “không thích hợp” với kiến thức âm nhạc cao cấp! Dàn nhạc New York Philharmonic năm 1966 mới bắt đầu tuyển dụng nhạc công nữ; Berlin Philharmonic Orchestra sử dụng nhạc công nữ đầu tiên năm 1982; và năm 1997, các cuộc biểu tình phản đối đã buộc Vienna Philharmonic Orchestra phải công nhận nhạc công nữ duy nhất của mình là thành viên chính thức. Một khảo sát được tiến hành năm 1987 (Nicola LeFanu) cho thấy, từ năm 1972 đến năm 1986, chỉ có 22 nhà soạn nhạc nữ được Hội đồng Nghệ thuật Vương quốc Anh đầu tư tài trợ tác phẩm, trong khi có đến 338 nhà soạn nhạc nam giới được nhận tài trợ (2). Lịch sử của Giải Pulitzer âm nhạc Hoa Kỳ đã nêu ở trên cũng là một trong những sự việc được xem là minh họa rõ nhất cho sự bất hợp lý khó hiểu này.

Tôi có là một trong những người nằm trong vòng ảnh hưởng của quan niệm “trọng nam khinh nữ” kiểu vậy không? Có lẽ có, một chút, thời còn trẻ, nhưng không phải do suy nghĩ “coi nhẹ nữ” mà là do kiến văn hạn hẹp, và cái chính, do “dốt”! Kỳ thực thì nền âm nhạc Việt Nam cho đến tận thập niên 1990 của thế kỷ trước vẫn chưa có một nhà soạn nhạc nữ nào theo đúng nghĩa của nó, vì đa phần ngoài những tác phẩm khí nhạc mang tính chất “trả bài” lúc còn học tập ở nhạc viện, khi ra trường, hoạt động và thành tựu của các nữ nhạc sĩ (và cũng của đại đa số nhạc sĩ Việt Nam nói chung) tựu trung vẫn chỉ nằm ở lĩnh vực ca khúc (nhạc nhẹ); những đóng góp có tầm vóc hơn một chút của “Damenmusik” Việt, nếu có, thường ở lĩnh vực sư phạm và biểu diễn (2). Với lẽ đó, cùng ảnh hưởng của xu thế đánh giá mang tính chất bảo thủ của giới âm nhạc kinh viện thế giới nói chung, giới hoạt động âm nhạc và cả người nghe Việt Nam cũng chẳng thoát được quỹ đạo của lối nhìn nhận hẹp hòi này. Tôi nhớ thời còn học nhạc viện, cùng lớp sáng tác với chúng tôi có 2 bạn nữ. Dù đã gặp không ít phụ nữ viết ca khúc hồi còn tham gia CLB Sáng tác trẻ ở NVH Thanh niên, nhưng khi chính thức gặp họ theo đuổi chuyên ngành này tôi cũng không tránh khỏi có đôi chút ngạc nhiên. Ngồi cà phê căng tin Nhạc viện thi thoảng tôi còn nghe các cô gái xinh đẹp của khoa Piano, khoa Thanh nhạc lắc đầu lè lưỡi đùa với nhau: “Con gái học sáng tác làm chi cho mau già, mau xấu!”. Mà thật vậy, mấy năm trời vật lộn với các bài tập hòa âm, phức điệu, phối khí, không biết bao nhiêu lần bị thầy hướng dẫn gạch chéo tổng phổ đã được mình “hì hục sáng tác” hàng tháng trời thì gái nào mà “hãy còn xuân” cho nổi! 😊 

Tác phẩm khí nhạc do phụ nữ sáng tác tôi được nghe đầu tiên là “Piano Quintet No.1” (1952) của Grazyna Bacewicz. Bản ngũ tấu tuyệt đẹp của nữ nhạc sĩ người Ba Lan này khiến tôi sau đó phải tìm nghe mọi tác phẩm của bà. Cũng từ Grazyna Bacewicz, tôi bắt đầu thực sự để tâm nghe và sưu tập đĩa ghi âm của các nhà soạn nhạc nữ khác: Sofia Gubaidulina, Galina Ustvolskaya, Germaine Tailleferre, Amy Beach, Kaija Saariaho, những tác giả nổi bật của các thời kỳ âm nhạc trước 1900, rồi gần đây nhất là Lera Auerbach, Sally Beamish, Elena Kats-Chernin, Meredith Monk, Hildur Gudnadóttir… Với hạn hẹp chỉ khoảng trên dưới 200 CD sưu tập được, nhưng đám đĩa hát đó, chúng như muôn ngàn ánh sáng sao đã mở ra cho tôi một vũ trụ âm thanh khác, cũng sâu thẳm, mênh mông và tuyệt diệu chẳng kém gì cái vũ trụ âm thanh mà các Masters nam giới trong các thế kỷ qua đã tạo dựng, và với những sáng tạo âm nhạc như vậy, các nhà soạn nhạc nữ giới hoàn toàn xứng đáng có được vị trí ngang hàng cùng bất kỳ nhà soạn nhạc lớn nào trong tương ứng với từng thời kỳ lịch sử mà họ đã xuất hiện.

Trở lại với giải Pulitzer dành cho âm nhạc. Nhìn lại lịch sử những người đoạt giải trước đây với toàn những tên tuổi lẫy lừng của nền âm nhạc hiện đại không chỉ của Mỹ mà của cả thế giới như: Aaron Copland, Charles Ives, Virgil Thomson, Samuel Barber, Elliott Carter, George Crumb, John Adams... mới thấy được sự thay đổi của Pulitzer khi trao giải cho, chẳng hạn Du Yun - nhà soạn nhạc nữ là người nhập cư đến từ châu Á, hay vĩ cầm thủ Caroline Shaw chỉ mới ngoài 30, nữ nhạc sĩ được xem là trẻ nhất trong lịch sử của giải, bề dày tác phẩm chưa có là bao. Xu hướng feminism? Ủng hộ bình đẳng giới và tinh thần vị nữ quyền của thời đại? Chẳng phải! Táo bạo, mới mẻ, đầy sáng tạo... là những tính từ người ta thường dành cho thế hệ các nhà soạn nhạc nữ này. Để hiểu được những lời khen tặng đầy trọng vọng ấy có lẽ không gì bằng trực tiếp nghe nhạc của họ. Bằng giọng điệu lạ thường và đầy cá tính của mình, các nữ nhạc sĩ đã kề vai sát cánh cùng các bậc thầy hiện đại khác sáng tạo (và thậm chí có lúc còn vượt lên phía trước), góp phần phá tung mọi rào cản, mở rộng biên cương âm nhạc về mọi hướng, tích hợp các phong cách âm nhạc mới mẻ và tươi tắn của thời đại vào những cấu trúc và thể loại âm nhạc kinh viện tưởng chừng đã cằn cỗi, đã tận đường.
 
Buổi chiều những ngày tận niên nằm nghe âm nhạc của nữ nhân bốn phương trời xem ra là một trải nghiệm tuyệt thú chưa từng có với tôi. Nghe “Partita cho 8 giọng hát” của Caroline Shaw với những tác khúc gây kinh ngạc đến sững sốt về kỹ thuật thanh nhạc mà hồi ức lại âm thầm vọng sánh với những khúc arie ngọt ngào say sưa mà cô thiếu nữ học trò của Francesco Cavalli thành Venice thế kỷ XV ngày nào đã viết; nghe “Prism” của Ellen Reid khắc khoải, u ám và đầy bạo liệt mà nơi sâu thẳm lại nghiêng người trầm mặc nghĩ tới những khúc tán ca của người phụ nữ dấu mình trong bóng tối tu viện Rupertsberg thời Trung cổ xa xôi... Mỗi thời đại có giọng hát riêng của nó. Trên những dòng nhạc tưởng chừng dễ dàng tan biến ấy, lịch sử luôn để lại những âm vọng mà bộ lọc thời gian dẫu có khắc nghiệt đến đâu cũng không thể xóa bỏ đi được. Và vì vậy, như thể, có trái tim, có cõi lòng, có tiếng hát của nhiều thế kỷ những nữ nhân viết nhạc cùng hòa ca và đồng vọng chung trong những nhạc khúc tuyệt diệu và tân kỳ của các cô gái nhạc sĩ mà tôi đang nghe trong cái buổi chiều tận niên này. Có phải nam thần Apollo đã ngự trị quá lâu trên vương quốc âm nhạc của con người?
Trần Thanh Sơn (1.2022) 

 
(1) The New Grove Dictionary of Music and Musicians
(2) Nicola LeFanu - Master Musician: an Impregnable Taboo?
(3) Việt Nam tiếp cận với âm nhạc cổ điển phương Tây nói riêng khá muộn nên việc hình thành và phát triển số lượng người viết cũng như người nghe loại hình âm nhạc này còn ít, nhà soạn nhạc nữ vì thế còn ít hơn nữa. NS. Nguyễn Thị Nhung (vợ NS. Huy Du) được xem là người phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam viết nhạc giao hưởng với tác phẩm “Nữ anh hùng miền Nam” (1972) khi học tại Nhạc viện Sofia - Bungary. Hiện nay số lượng các nhạc sĩ nữ Việt Nam theo đuổi con đường sáng tác khí nhạc bắt đầu tăng lên được một chút, báo chí âm nhạc gần đây nhắc đến một vài cái tên như: Đặng Tuệ Nguyên, Vũ Đặng Minh Anh (Ba Lan)… Chúng ta có quyền hy vọng?
 
 
Note:  Pulitzer âm nhạc 2022 hoặc 2023, cớ chi không là Missy Mizzoli?

Missy Mizzoli: Wayward Free Radical Dreams (From “Vespers for a New Dark Age”)

 
 
 
Ảnh trên: From “Three Young Women Making Music with a Jester” (Anonymous)

Không có nhận xét nào: