Tôi không tin vào những nhạc sĩ đã tự biến mình thành một thứ biểu trưng cho chế độ, che đậy sự tàn bạo của đế chế bằng các trò tiêu khiển âm nhạc và khiến nó trở thành một sự thể khả dĩ có thể chấp nhận được về mặt xã hội. Tôi không tin vào những nhạc sĩ chỉ nhìn thấy và suy diễn lịch sử như một kho tư liệu có sẵn kiểu hiện vật trong bảo tàng, cũng không thể tin cậy gì vào những nhạc sĩ chỉ tự tín bản thân mình... Thẳng thắn, trực diện và với chút khiêu khích, nhà soạn nhạc Bernhard Lang từng bày tỏ như vậy trong một tiểu luận được viết vào cuối thập niên 1990 (1) khi ông bắt đầu thực hiện chuỗi sáng tác được xem là tiêu biểu và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của mình: “Khác biệt/Lặp lại” (Differenz/Wiederholung, hay được viết tắt là DW) lấy cảm hứng từ tập triết luận nổi tiếng của Gilles Deleuze. Đòi hỏi một lập trường nghệ thuật trách nhiệm, âm nhạc không đơn thuần chỉ là sản phẩm thẩm mỹ mà còn phải là phương tiện để chất vấn xã hội, làm sâu sắc thêm sự hiểu biết về lịch sử, đồng thời bản thân người viết nhạc phải vượt lên khỏi sự tự mãn cá nhân để phục vụ cho những mục đích cao cả hơn. Có vẻ Bernhard Lang đã đặt lên vai người nhạc sĩ những yêu cầu và nhiệm vụ chẳng mấy nhẹ nhàng!
Tôi chưa từng nghe nhạc Bernhard Lang cho đến khi đọc được những lời phát biểu trên của ông. Được đánh giá là một trong những nhà soạn nhạc đương đại Áo nổi bật, một gương mặt quan trọng của dòng nhạc khái niệm (conceptual music) Châu Âu với phong cách đa dạng sử dụng nhiều kỹ thuật mới lạ kết hợp giữa nhạc cổ điển với jazz, techno, rock, punk, hip-hop, experiment…, dù vậy danh tiếng ông mãi đến đầu những năm 2000 vẫn chỉ nằm trong phạm vi khá chuyên biệt của cộng đồng những người yêu thích nhạc tiền phong, ít được khán giả rộng rãi biết tới (2). Năm 2006, nước Áo kỷ niệm 250 năm ngày sinh Mozart. Trong không khí tưng bừng các sự kiện và lễ hội tôn vinh Mozart, nhà hát Theater an der Wien (3) đã gây sửng sốt khi cho ra mắt vở nhạc kịch có cái tên đầy ngược ngạo “Tôi ghét Mozart”. Đây là tác phẩm được Ban tổ chức Năm Mozart thành phố Vienna 2006 đặt hàng Bernhard Lang từ trước đó như một trong những hoạt động chính thức nhằm kỷ niệm 250 năm ngày sinh nhà soạn nhạc thiên tài. Dù mang hơi hướm của sự cố tình tạo khác lạ nhằm thu hút sự quan tâm của truyền thông và công chúng, không thể phủ nhận tính mới mẻ, độc đáo của vở nhạc kịch, đặc biệt là sự táo bạo và tầm nhìn tiên phong rộng mở của Wiener Mozartjahr 2006 trong sự kiện này (4). Vở nhạc kịch đã tạo tiếng vang lớn và lập tức chia giới thưởng thức opera đương đại ra làm hai phía: những người ủng hộ thì xem tác phẩm là một cách tôn vinh khác dành cho Mozart - một cuộc đối thoại phức tạp và đầy tính triết lý đối với di sản của ông; còn khán giả truyền thống thì cho đó là một sự thiếu tôn trọng đối với nhà soạn nhạc vĩ đại, một trò bỡn cợt quá đà! Nhưng mà có gì trong “Tôi ghét Mozart”?
“Cớ chi ngày nào tôi cũng phải hát Mozart? Mozart, Mozart, Mozart! Tôi ghét Mozart”, nhân vật ca sĩ giọng tenor trong vở nhạc kịch cất lời than vãn như vậy. Lấy bối cảnh một nhà hát đang trong quá trình dàn dựng opera “Cây sáo thần” của Mozart với những mối quan hệ đầy rối rắm, bi hài: là trò chơi quyền lực của vị nhạc trưởng đang muốn cô nhân tình của mình vào hát vai nữ chính thay vì người vợ diva kiêu kỳ, là sự ích kỷ của các ông bầu và những nhà quản lý nghệ thuật, sự khủng hoảng về bản sắc của các ca sĩ kỳ cựu, nỗi lo âu của dàn diễn viên trẻ đang ganh đua một cách tuyệt vọng cho sự nghiệp... mà bao trùm lên tất cả những con người đó - dù nhiều ít không giống nhau - là áp lực phải thể hiện mình trước cái bóng ma mang tên Mozart đang cột chặt họ vào chung một thuyền. Khán giả được đưa thẳng vào hậu trường đời sống nghệ sĩ, nơi những ảo ảnh vinh quang sau bức màn nhung đã tan biến, thay vào đó là những đấu đá kèn cựa, những dằn vặt nội tâm, sự bất an, nỗi cô đơn, nỗi sợ bị lãng quên và niềm khát khao được thấu hiểu, được giải thoát khỏi cái bóng quá lớn của nhà soạn nhạc thế kỷ 18, “Mozart thì bất khả xâm phạm, nhưng tôi đã mệt vì phải thờ phụng những bóng ma” (5). Không giấu ý định tạo ra một “tuyên ngôn” phản ứng lại tệ sùng bái, thần thánh hóa Mozart, dùng tên tuổi Mozart để trục lợi (6) - như chính tựa đề của vở nhạc kịch vốn dĩ đã là một lời thách thức đối với những ai xem Mozart như thánh tượng bất khả xâm phạm - Bernhard Lang tỉ mẩn mổ xẻ sự ám ảnh, gánh nặng mà Mozart để lại cho các thế hệ nghệ sĩ mai hậu - một di sản nghệ thuật vừa là nguồn năng lượng lại vừa là gông cùm, vừa truyền cảm hứng lại vừa trói buộc, gợi mở một kiểu tiếp cận mới không chỉ với Mozart mà còn đối với mọi di sản văn hóa lịch sử.
Lặp lại nhưng khác biệt - kỹ thuật phát triển âm nhạc lấy cảm hứng từ triết học của Gilles Deleuze tiếp tục được Lang khai triển sử dụng cho opera “Tôi ghét Mozart”. Xem âm nhạc như “chiếc máy ký ức” - luôn mang bóng dáng của quá khứ, nhưng đó là thứ quá khứ đã được lọc, cắt, và tái lắp để phản ánh hơi thở của thời đại mới - “Tôi ghét Mozart” là sự kết hợp, phối ghép, pha trộn nhuần nhuyễn giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại: từ chất liệu âm nhạc cổ điển của chính Mozart đến các thể loại, ngôn ngữ và kỹ thuật âm nhạc mới mẻ nhất của thế kỷ 20/21, từ thể loại singspiel thế kỷ 18 đến hơi thở hài hước, châm biếm của rap được trộn với DJ và scratch (7)... Theo một số phân tích cũng như trình bày của chính tác giả về quá trình thực hiện “Tôi ghét Mozart” (8), để chuyển tải được những thông điệp mang tính trừu tượng cao, mọi chi tiết âm nhạc xuất hiện trong vở nhạc kịch đều có dụng đích. Phản ánh khung cảnh phức tạp của hậu trường nhà hát, các diễn biến tâm lý rối rắm, giăng mắc của các nhân vật, Lang thường dùng cách lặp lại không ngừng các cụm từ hoặc đoạn nhạc - thể hiện sự ám ảnh lặp đi lặp lại, vừa tạo phong cách ngôn từ, vừa là thủ pháp nghệ thuật gợi nhớ đến khái niệm triết học “Différence/ Répétition”. Có thể thấy nguyên tắc chung của ông là khai thác tính quen thuộc, dễ nhận diện của âm nhạc Mozart. Lấy chất liệu âm nhạc Mozart (giai điệu, motif, hình thức) rồi biến đổi nó để tạo các hiệu ứng như châm biếm, ám ảnh tâm lý hoặc hài hước. Thay vì trình bày nguyên vẹn một câu nhạc Mozart, Lang lấy những “mẩu” nốt, cụm quãng, vòng giai điệu “ai cũng biết“ (ví dụ đoạn “Ach, ich fühl's” trong vở “Cây sáo thần” được dùng và xử lý trong Act I) rồi cắt xén, lặp lại, kéo dài, vặn vẹo, đặt chồng vào lớp âm thanh điện tử/ DJ để tạo ra một “bóng ma Mozart” hiện diện và ám ảnh liên tục nhưng không bao giờ được nghe thấy một cách nguyên vẹn và ổn định. Việc dùng những “mẩu” nhạc có tính dễ nhận diện nhất này cũng cho phép ông đánh vào vào trí nhớ âm nhạc của thính giả, giúp gây phản ứng hưởng ứng tức thời khi họ nhận ra “mẩu” nhạc Mozart đã bị bóp méo, biến đổi và biếm nhại. Một kỹ thuật dễ nhìn thấy nữa là cắt dán và phân mảnh. Dòng giai điệu quen thuộc của Mozart bị xén thành những “tế bào” âm nhạc rất ngắn, chỉ vài ba nốt, được sắp xếp lại theo thứ tự mới rồi sử dụng lặp đi lặp lại từng cái một như những ostinato nhỏ, tạo hiệu ứng như thể giai điệu bị mắc kẹt, chuyển động tuyến tính hướng về kết âm (cadence) bị triệt tiêu và người nghe có cảm giác như tâm lý nhân vật bị xé thành từng mảnh, rời rạc và hoàn toàn mất phương hướng.
Một số kỹ thuật với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại cũng thường được Lang sử dụng là kỹ thuật looping (vòng lặp) được đặt chồng lớp, đôi khi với độ dài khác nhau hoặc với biến thể nhỏ ở mỗi lần lặp tạo hiệu ứng ám ảnh, căng thẳng tâm lý; có những trường đoạn các vòng lặp còn tạo lớp nền nhịp điệu tĩnh tại, trên đó các “mảnh Mozart” trở thành điểm nhấn lặp đi lặp lại như tiếng vọng. Kỹ thuật time-stretch rút ngắn hoặc kéo dài và “dát mỏng” giai điệu Mozart ra, tạo cảm giác lửng lơ, lưng chừng giữa nhớ và quên, giữa có nghĩa và vô nghĩa. Kỹ thuật lọc băng tần và biến đổi màu âm (timbre/spectral) khiến âm sắc nguyên bản của âm nhạc Mozart (dàn nhạc dây, giọng soprano) bị thay đổi nghe như tiếng mờ, tiếng lạo xạo của băng đĩa cũ, một thứ ký ức bị bóp méo, tạo cảm giác xa lạ, ngăn cách giữa “hồn nhạc Mozart” và tâm trạng nhân vật hiện tại. Song song đó, các thao tác kỹ thuật khác như DJ/ scratch, cắt đoạn và lặp lại cực nhanh các “mẩu âm” biến âm nhạc Mozart thành một thứ vật liệu để trình diễn, tạo hiệu ứng bỡn cợt, gây cười; về tâm lý gây cảm giác một sự gián đoạn về ý thức, đồng thời cũng hàm ý mô tả sự xung đột giữa âm nhạc cổ điển truyền thống và văn hóa âm nhạc đại chúng... Với tất cả những thứ đã kể, vồng lên trên tất cả, thính giả chừng như nghe và cảm giác thấy một thứ âm nhạc Mozart đã bị rút cạn sinh lực, mất khả năng chuyển động, chỉ còn là những mảng âm thanh trôi nổi lềnh bềnh bên trên những lớp lời hát, lời thoại, tiếng thì thầm của ngôn ngữ xào xạc như một lớp sample cũng bị xử lý giống nhạc cụ, bị nghiền nát và đồng hóa thành một kết cấu âm không còn mang sức mạnh ngữ nghĩa. Mozart bị giải thiêng. Mozart chỉ còn là một đoạn nhạc bị lặp lại vô tận, không còn hào quang, một kiểu tiếng vang mà người ta nghe thấy tên nhưng không còn có thể kết nối, hiểu và nắm bắt được!…
“Truyền thống không phải là thờ tro tàn...”, câu nói cũ của nhà soạn nhạc Gustav Mahler có thể sử dụng như một đề từ tuyệt đẹp cho vở nhạc kịch của Bernhard Lang. “Tôi ghét Mozart” chính là phản ứng của một thế hệ nghệ sĩ đang bị trói tay bởi cái gọi là “truyền thống”, bị ép sống dưới ánh sáng chói lòa của những tượng thờ khổng lồ đến mức họ không còn chỗ để thở: “Mozart, Mozart! Lúc nào cũng là ông ta - chỉ ông ta, chẳng bao giờ là chúng tôi...” (9). Không phủ nhận Mozart nhưng dùng Mozart như một vật liệu để soi chiếu hiện tại - cái tâm thế dựa lưng truyền thống để chống lại truyền thống ấy của Lang đã tạo ra một “khí hậu âm nhạc” vừa mỉa mai vừa ngột ngạt, một thứ “áp thấp” cảnh báo có thể biến thành giông bão cuốn phăng đi mọi thứ. Mà ngẫm lại, làm nghệ thuật hôm nay có nghĩa gì nếu tất cả giá trị đều chỉ được đo bằng quá khứ? Người nghệ sĩ còn khoảng trời nào để sống, để phát triển nếu không muốn biến thành những phiên bản kế thừa? Ở một tầng ẩn dụ khác, vở opera cũng có thể được xem như một tuyên ngôn ngầm chống lại sự lũng đoạn truyền thống của các thế lực cầm quyền - cả trong nghệ thuật lẫn trong xã hội. Khi “Mozart” bị chiếm dụng và biến thành biểu tượng của truyền thống, của chuẩn mực, của cái đẹp không thể tranh cãi, “nghệ thuật” (hay tất tần tật những gì các thế lực cầm quyền muốn) sẽ bị đóng khung vĩnh viễn vào cái vòng kim cô của những mỹ từ (kiểu như: di sản, truyền thống, tài sản tinh thần...) mà sau đó mọi sáng tạo khác biệt đều sẽ bị quy cho là lệch lạc, là bất tuân, vô đạo... Lịch sử đẫm máu và nước mắt của chủ nghĩa toàn trị đối với văn học nghệ thuật nói riêng và tư tưởng con người nói chung chưa bao giờ là một kinh nghiệm lỗi thời!
Nghe lại lần nữa vở opera hí lộng của Bernhard Lang mà lòng cứ lan man nghĩ toàn những thứ nằm ngoài âm nhạc. Trong cái thế giới bất toàn, méo mó và hỗn loạn hôm nay, ở một khía cạnh nào đó, mỗi con người chúng ta chẳng biết được có đang thụ động là một nhân vật của vở opera Tôi-ghét-Mozart khác, mắc kẹt trong guồng quay bi thảm của một thứ di sản khác với những thần tượng khác, được thiêng hóa, thánh hóa, taboo hóa theo một kiểu khác! Trong cái mise-en-scène mà cuộc đời đang bày ra đó trước mình, tôi và bạn, chúng ta sẽ chọn tiếp tục cắm đầu khổ sở lặp lại “Mozart” cho đến khi nôn mửa (10), hay ít nhất một lần trong đời (đúng thế, ít nhất một lần trong đời) chọn can đảm mở miệng tuyên bố như Bernhard Lang “Tôi ghét Mozart”? Xin dùng câu nói của John Cage (chẳng nhớ đọc được ở đâu) để kết thúc bài viết này: “Chúng ta mang theo quá khứ, nhưng không nhất thiết phải kéo lê nó!”.
Trần Thanh Sơn (10.2025)
(1) Günther, Bernhard (Hg.): Lexikon zeitgenössischer Musik aus Österreich: Komponisten und Komponistinnen des 20. Jahrhunderts, Wien: music information center austria, 1997, trang 555.
(2) Tôi nhớ, mãi đến tận năm 2015 hoặc 2016 gì đó, nhờ tình cờ sưu tập được một lượng khá lớn đĩa ghi âm các tác giả, tác phẩm từng được chọn công diễn tại Liên hoan âm nhạc đương đại Donaueschingen Musiktage qua các thời kỳ (do Col Legno, NEOS phát hành) tôi mới lần đầu tiên được nhìn thấy cái tên Bernhard Lang. Nhưng cũng thú thật, đống đĩa đó tôi chỉ chọn nghe những tác giả mình từng biết qua như Stockhausen, Nono, Penderecki, Rhim, Xenakis, Lachenmann... còn thì chỉ lớt phớt “dạo” nghe thử một vài tác phẩm của các nhà soạn nhạc lạ khác, rồi thôi. Mà hỡi ôi, Bernhard Lang vô tình nằm trong số những tác giả “rồi thôi” ấy!
(3) Theater an der Wien là nhà hát có lịch sử lâu đời tại Vienna, xây dựng và hoàn thành vào năm 1801 trên nền của nhà hát cũ được xem là nơi vở opera “Cây sáo thần” (Die Zauberflöte) nổi tiếng của Mozart công diễn lần đầu.
(4) Để thấy được “sự táo bạo” này cần thử đặt tất cả những thứ vừa kể vào một không gian khác, như Việt Nam chẳng hạn. Hãy giả dụ cách đây hai năm, đúng năm 2023. Khó có thể tưởng tượng nổi rằng có một nhạc sĩ nào đó ở ta dám viết một tác phẩm lấy tên “Tôi không ưa Văn Cao”, càng khó tưởng tượng nổi ban lãnh đạo một nhà hát nào đó dám đặt hàng và đồng ý “duyệt” cho công diễn một tác phẩm có tên đại loại như vậy nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh tác giả “Thiên thai” 1923-2023. Tuy vậy, lại rất dễ tưởng tượng thấy, nếu quả có một tác phẩm dám lấy tên như thế, chẳng cần biết tới nội dung của tác phẩm ấy nói chuyện gì, đá-tảng-đá-cục-đá-hòn… từ phía dư luận, từ đám đông bạo chúa (mượn chữ của Tocqueville) sẽ ùa vào ném cho đến chết những kẻ bạo gan!
(5) Libretto “Tôi ghét Mozart”.
(6) Tiêu đề vở nhạc kịch của Lang cũng là lời châm biếm về cách thức thế giới hiện đại lợi dụng danh tiếng của Mozart để thu lợi. Bằng giọng điệu hài hước pha chút cay đắng, một bài báo từng mô tả các ngành du lịch, thương mại và dịch vụ Áo cũng rầm rộ “ăn theo” sự kiện 250 năm Mozart như sau: “Bạn có thể uống sữa lắc Mozart; ăn “Mozartwurst” (người tạo ra món ăn này cho biết công thức làm xúc xích heo, bò và quả hồ trăn đã đến với anh ta trong một giấc mơ); chén đẫy bụng bánh Mozart và sau đó nốc la đà bia và rượu cũng với nhãn hiệu Mozart. Quần lót Mozart và quả bóng golf Mozart chỉ bị vượt qua bởi chiếc nịt vú Mozart! Chiếc nịt vú này sẽ phát ra bài “Eine Kleine Nachtmusik” một cách đắc thắng khi được cởi ra!” (The Independent, 2.1.2006). Sài Gòn năm 2006 cũng có một đêm Mozart tổ chức tại Nhà hát Thành phố. Tôi còn nhớ được sự kiện này vì có người quen tặng lại một cặp vé mời mà họ không sử dụng đến. Đêm nhạc diễn ra vào đúng hôm sinh nhật của tôi, và tôi đã chọn đi nhậu với đám bạn chứ không… đến với Mozart!
(7) Kỹ thuật DJ/Scratch: từ chỉ việc tạo ra âm nhạc và hiệu ứng âm thanh trong môi trường biểu diễn trực tiếp. Kỹ thuật DJ chủ yếu liên quan đến việc chọn nhạc, trộn nhạc (mixing), và tạo hiệu ứng. Scratch (hoặc Turntablism) là một kỹ thuật DJ đặc biệt trong đó DJ sử dụng đĩa vinyl hoặc các phương tiện kỹ thuật số để tạo ra các âm thanh đặc biệt bằng cách “véo” hoặc di chuyển đĩa quay qua lại trên bàn xoay.
(8) Các bài viết, giới thiệu về kỹ thuật sáng tác của Bernhard Lang bao gồm: các mô tả trên trang của nhà xuất bản Ricordi; bài viết của Christine Dysers, Laura Tunbridge; booklet đính kèm bản phát hành CD của Col-Legno (2008).
(9) Libretto “Tôi ghét Mozart”.
(10) “Bây giờ họ lặp lại Mozart cho đến khi bạn nôn mửa” (Bernhard Lang trong một phỏng vấn, L. Tunbridge, Cambridge Opera Journal).
* I Hate Mozart, Opera 2006; Music: Bernhard Lang; Libretto: Michael Sturminger; Cast: Florian Boesch, Dagmar Schellenberger, Mathias Zachariassen, Andrea Lauren Brown, Salome Kammer, David Pittman-Jennings, Rupert Bergmann, Dieter Kovacic, Wolfgang Fuchs, Ensemble Nova, Klangforum Wien; Conductor: Johannes Kalitzke; Col Legno, 2 SACD (2008)
Ảnh trên: From “Mozart Computor in His Head” (Dariusz Mikulski)
.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét