Đêm qua tôi mơ
thấy Capri, con chó đã gắn bó xiết bao với thời niên thiếu của tôi, từng cùng
tôi đi xuyên qua những mùa đông thăm thẳm của miền Trung thời hậu chiến u buồn
và tối ám. Capri đến ngồi dưới chân tôi, nó dụi chiếc mũi nóng và ẩm vào đầu gối
tôi, ngước đôi mắt vàng sáng đầy tin tưởng nhìn tôi, chờ tôi cúi xuống vuốt ve,
nói chuyện với nó, như thể nó chưa chết, chưa từng rơi thỏm vào cái hố đen thăm
thẳm sâu gần 40 năm của lãng quên; và tôi, tôi vẫn là một cậu bé như ngày nào
trên bãi biển mùa đông đang dạo chơi cùng con chó yêu quý của mình.
Tôi mang Capri về nhà nuôi lúc nó chỉ mới được 3, 4 tháng tuổi. Chủ nhân đầu tiên của Capri là một nhóm chiến sĩ quân báo bộ đội Bắc Việt đóng chốt trong căn biệt thự bỏ hoang ở gần nhà tôi. Khoảng thời gian đó, đặc biệt là từ sau tháng 3.1975, thành phố tôi ở đầy những ngôi nhà bỏ hoang kiểu như vậy. Với đủ mọi lý do: chạy loạn, di tản, chết vì bom rơi đạn lạc, bỏ xác ngoài biển sâu hay hồi cư về lại quán xứ khi mặt đất đã im tiếng súng - một ngôi nhà, một dãy phố, và thậm chí cả một khu phố bị bỏ hoang. Ban đêm, mà ngay cả ban ngày, đi qua những khu vực này cứ gai gai người như đi trong một thành phố chết. Thế nhưng với đám trẻ chúng tôi, trong mùa hè hòa bình đầu tiên ấy, những dãy phố đóng cửa và những khu vườn bỏ hoang lại là thiên đường để nô đùa và nghịch phá...
Nhóm chiến sĩ
quân báo bộ đội Bắc Việt đóng trong căn biệt thự có khu vườn rộng được bao kín
bằng dãy tường cao hoa giấy tím leo kín. Bộ đội từ miền Bắc vào giải phóng
thành phố những ngày đầu rất đáng mến (cũng có thể do chính sách quân quản buộc
tất cả phải như vậy), họ chan hòa với dân chúng, yêu mến trẻ con, không tỏ ra
đáng sợ với bất cứ ai vì trên môi luôn thường trực một nụ cười. Mẹ tôi bảo có
thể các anh từ rừng ra, từ nơi máu lửa thiếu vắng hơi hám tình người nên về
thành phố họ yêu quý mọi người. Chẳng biết lý do nào đúng, nhưng quả thật đám
trẻ chúng tôi ngày ấy được thỏa thích vui chơi, xông cả vào những doanh trại
quân đội, những nơi lẽ ra không nên vào và không được vào… Căn biệt thự có khu
vườn rộng ấy là nơi đám trẻ chúng tôi ưa tụ tập vui chơi bất kể lúc nào rảnh rỗi
mà chẳng bị các anh bộ đội trú đóng cấm cản bao giờ. Và cũng chính ở đó, tôi là
đứa trẻ đầu tiên đã phát hiện ra chú chó con bị bỏ lại vì cuộc chuyển quân đột
ngột (có lẽ vào đêm hôm trước) của đơn vị quân báo. Con chó rơi xuống cái mương
cạn đầy rác phía sau căn biệt thự và ngủ thiếp đi. Buổi sáng sớm mùa hè tuyệt vời
ấy, số phận đã chọn tôi là chủ nhân của Capri!
Tôi đặt tên con
chó là Capri, gần giống tên con chó của gánh xiếc rong trong tiểu thuyết “Sans
famille” của Hector Malot, thầm mong nó cũng khôn ngoan như Capi trong truyện.
Mà nó thông minh và khôn ngoan thật sự!...
Capri lớn mau
như thổi nhờ mớ sữa hộp “Quân tiếp vụ” quá đát mà những ngày chế độ cũ tan vỡ
dân chúng ùa vào phá kho đổ ra đầy đường. Suốt mùa hè được nghỉ học ở nhà,
Capri và tôi chơi đùa, quấn lấy nhau như hình với bóng. Buổi tối không được
phép vào phòng ngủ chung với tôi, Capri ngoan ngoãn nằm khoanh tròn trên tấm thảm
chùi chân đặt ngoài thềm thông ra sân trước phòng riêng của tôi. Đôi khi thức
giấc nửa khuya, tôi luôn nghe tiếng sột soạt của Capri ngay trước cửa phòng, tiếng
nó thi thoảng rít lên ư ử một giấc mộng rong chơi phiêu bồng nào đó của loài
chó. Tất cả mọi buổi sáng, vừa thức giấc mở cửa bước ra vườn, Capri đã nhảy bổ
vào tôi, đôi mắt vàng sáng rực, đuôi ngáy tít lên mừng đón. Lớn thêm một chút,
mọi trò vui với đám bạn mùa hè của tôi Capri đều bắng nhắng tham dự. Đá banh,
bóng chày, chạy đua, đuổi bắt… món nào Capri cũng tham gia nhiệt tình, thế nhưng
cũng lắm khi nó làm tôi và đám bạn phát cáu vì vướng chân vướng cẳng. Bị mắng,
Capri phải ra ngoài ngồi chầu rìa, nó ngồi thè cái lưỡi đốm ra, vẻ mặt thiểu
não. Ở tuổi trưởng thành, trò chơi ném đĩa là trò Capri yêu thích nhất. Món này
nó học cực nhanh và mau chóng trở nên điêu luyện. Capri nhảy vọt lên rất cao và
luôn gặm trúng phóc cái đĩa nhựa được tôi ném ra… Ngày đầu tiên của năm học mới
dưới chế độ cách mạng, Capri ẳng ẳng chạy theo xe đạp của tôi đòi đi cùng, tôi
phải quát cho một trận thật dữ nó mới chịu thôi. Đạp xe được một quãng xa, nhìn
lại, tôi thấy nó ngồi chống hai chân trước bên vệ đường trước cổng nhà nhìn
theo dáng vẻ buồn thiu.
Không như đa phần
những con chó khác thường sợ nước, Capri rất thích đi tắm biển. Nó lao theo tôi
xuống nước, cùng bơi trên sóng với tôi một cách thích thú. Có lần trông thấy một
con chó khác đang oăng oẳng khóc thét lên vì bị chủ bắt phải xuống biển tắm, con
chó nhát gan rúm người lại vùng vẫy rồi chạy vụt lên bờ. Capri ngồi cạnh bờ
sóng nhìn con chó nhát gan bằng ánh mắt khinh bỉ. Nó sủa lên mấy tiếng nhát gừng
ra cái điệu bảo: “Có gì mà nhắng lên thế, xem tao đây này!”, rồi phóc một cái
vượt qua một con sóng, nhảy ùm xuống nước. Điều đặc biệt ở Capri còn là nó
không sợ tiếng nổ, không sợ pháo. Cái Tết hòa bình đầu tiên được phép đốt pháo
trở lại, Capri hăm hở chạy theo tôi đi xem đốt pháo. Khi hầu hết đám chó trong
phố đều cụp đuôi trốn biệt xuống gầm tủ gầm giường khi nghe tiếng pháo, Capri
ngược lại, nó cùng tôi và đám nhóc xông vào những dây pháo đang nổ tung tóe để
dành giật nhau những viên pháo lép. Mẹ tôi cười bảo, chó của mấy ông cộng sản
có khác, họ gan dạ, quen đánh nhau, quen tiếng nổ của đạn bom rồi nên chó của họ
cũng khác hẳn chó thành phố!
Một điểm đặc biệt
nữa của Capri là nó rất thân thiện đáng yêu với những người mà tôi yêu mến và tỏ
ra cực kỳ khó chịu với những ai mà tôi không ưa. Chẳng ai dạy nó phải như vậy cả,
nhưng hình như bằng một thứ giác quan vô hình nhưng cực kỳ nhạy bén của loài
chó, Capri cảm nhận được những xung động tình cảm yêu ghét phát ra từ chủ nó.
Những người bạn mà tôi quý mến đến nhà chơi, Capri chạy ra vui vẻ vẫy đuôi chào
đón; những người tôi ghét đến tìm, Capri đứng chắn ngay cổng, mắt lườm lườm miệng
gầm gừ đe dọa.
Phố nhà tôi ở có
ông T. nuôi một con chó rất dữ. Dù nhà ông luôn kín cổng cao tường nhưng con
chó ông nuôi là hung thần của tất cả bọn trẻ chúng tôi. Đi ngang nhà ông, bọn
chúng tôi lúc nào cũng phải mặt la mày lét, vì chỉ cần ông mở cổng là con chó
quái quỷ của ông phóng vụt ra và sẵn sàng tớp vào mông bất cứ thằng nhãi nào
đang lang thang qua đó. Tôi chưa xui xẻo bị nó tớp lần nào nhưng cũng hãi con
chó này lắm. Một chiều, chẳng nhớ tôi đi đâu về, vừa chạy ngang cổng nhà ông T.
thì con chó xồ ra. Tôi điếng hồn, chỉ kịp nhắm hướng nhà mình vắt giò lên cổ
tăng tốc mong chạy thoát khỏi hàm răng trắng nhởn của con chó dữ. Tình thế đầy
tuyệt vọng khi tôi nghe tiếng chân, tiếng gầm gừ táp gió của con quỷ đã sát sạt
sau lưng, thì bất ngờ một cái bóng đen từ cổng nhà tôi lao vụt ra: Capri! Nó
lao thẳng vào con chó nhà ông T. Tôi nghe huỵch một tiếng sau lưng mình. Sau đó
là tiếng vật nhau, tiếng sủa, tiếng gầm gào cắn xé quyết liệt giữa hai con chó.
Dù nhỏ con hơn, Capri chẳng hề chịu thua kém, nó cắn xé, gặm chặt cổ con chó
kia quyết ăn thua đủ. Chỉ đến khi ông T. xách gậy ra ngăn lại, hai con chó mới
chịu rời nhau ra. Cả hai đều thương tích máu me lông lá tả tơi. Người còn run lẩy
bẩy, tôi ôm lấy Carpi, nó thè chiếc lưỡi đốm ra liếm tay tôi, đuôi ngoáy tít mừng
rỡ… Về đến nhà, sau khi bôi thuốc và băng bó cho nó, mẹ tôi vui vẻ bảo từ nay
Capri được thăng chức vệ sĩ danh dự, mẹ thưởng cho nó một con cá phèn nướng thật
to. Capri của tôi phải đi cà nhắc gần một tuần lễ.
Rồi những ngày khó
khăn đói kém, thiếu lương thực triền miên bắt đầu kéo đến. Hai lần đổi tiền
đánh sập hoàn toàn nền kinh tế của đại đa số các gia đình miền Nam, trong đó có
gia đình tôi. Mọi nhu cầu lương thực cho sinh tồn tối thiểu của một con người đều
phải được mua bán thông qua tem phiếu. Gạo thiếu, người ta bán khoai khô, bắp
khô, bo bo kèm thêm để nấu thành một thứ hỗn hợp lổn nhổn gọi là cơm. Rồi cũng
chẳng còn cơm. Khoai mì cắt lát phơi khô dày và to như một cục đá xanh được bán
làm lương thực chính. Muốn ăn được “cục đá xanh” này phải ngâm nó vào nước từ
hôm trước, sau đó ninh trên bếp hàng ngày trời mới tạm mềm ra để có thể nuốt.
Mà đó cũng là thứ món ăn khó nuốt và khiến người ăn luôn muốn ọe ra vì ngán. Mẹ
tôi phải mang đi xay thành bột, đến bữa nặn thành một thứ bánh bao kỳ dị không
nhân luộc lên ăn với nước muối trộn mỡ! Người còn xanh mướt vì thiếu ăn nên
trách gì chó chẳng gầy nhom! Tôi sẽ nhớ mãi những buổi chiều mùa đông giá rét,
không có điện, trong ánh lửa chập chờn của cái bếp củi khói bốc cay xè, gia đình
tôi mỗi người một tô gồm mấy cục bột khoai mì hấp như vậy. Capri cũng có một
đĩa. Nó không thích món ăn kỳ quặc này. Bằng dáng vẻ uể oải, nó đi đến bên đĩa
thức ăn của mình, ngửi rồi đứng thẩn thờ một lúc lâu như thể suy nghĩ có nên ăn
thứ thức ăn đáng chán này không. Không muốn ăn, nhưng vì bụng đói, Capri đành gặm
lấy một cục bột luộc, nó ngậm trong miệng rồi đủng đỉnh đi một vòng quanh cái
sân rộng trước nhà, vừa đi vừa nhóp nhép nhai. Tròn một vòng, nuốt xong cục bột
thì cũng là lúc nó quay lại chỗ cái đĩa. Lại bắt đầu một cục bột khác, một vòng
quanh sân, nhai nuốt rồi lại quay trở lại. Cứ như thế khoảng năm, bảy vòng thì
Capri cũng thanh toán xong bữa ăn! Nhìn Capri ăn, tôi vừa buồn cười vừa thương
nó đến chảy nước mắt…
Chẳng hiểu vì
sao ký ức của tôi về miền Trung thời hậu chiến lại chỉ thường gắn liền với những
mùa đông lạnh lẽo và buồn rầu, như thể nó dài thăm thẳm, tuyền một màu xám xịt
và tối tăm như một đường hầm không lối thoát. Thi thoảng cũng có những ngày giữa
đông nắng bất chợt lóe sáng, tôi thường tranh thủ dẫn Capri ra bãi biển dạo
chơi cho nó đỡ cuồng chân. Capri thường lăng quăng chạy trước, lúc thì đuổi
theo một con còng gió, lúc thì phóng mình vồ những cánh mòng biển bạo gan dám đậu
xuống trước mũi nó. Đôi khi tôi và Capri chẳng làm gì, lười biếng nằm trên đồi
phi lao cát trắng nhìn ra biển mùa đông mịt mù bụi nước. Tôi mơ mòng với giấc
mơ đời thủy thủ quen thuộc của mình, còn Capri thì nằm ngủ gà ngủ gật dưới chân
tôi…
Một tối tôi đi học
nhóm về muộn. Như thường lệ, Capri thường ngồi trước cổng nhà ngay trên lề đường
chờ đón tôi. Nhác thấy tôi xuất hiện từ xa, Capri đã chạy vọt đến mừng rỡ rồi
lót tót chạy theo xe đạp của tôi về nhà. Nhưng tối hôm ấy tôi không thấy Capri đâu cả.
Vừa về đến cổng nhà, em gái tôi chạy ra báo: “Anh ơi, Capri bị xe bộ đội cán phải!”.
Tôi rụng rời chân tay. Mẹ tôi đang chăm sóc cho Capri. Con chó nằm dài
trên tấm thảm cũ của nó, trông thấy tôi, Capri như muốn đứng dậy, nhưng không nổi,
người nó run lẩy bẩy, khóe miệng rỉ máu. Người hàng xóm bảo trông thấy chiếc Molotova
của bộ đội leo lên lề cố tình tông vào Capri đang ngồi trên vỉa hè. Tay bộ đội
lái xe muốn cán chết con chó để mang xác về làm thịt. Capri bị đụng rất nặng
nhưng vẫn vùng chạy thoát được về đến nhà!... Tôi ôm chặt lấy Capri. Như chỉ chờ
có vậy, con chó của tôi thở dốc rồi hộc lên, máu tươi từ miệng nó lại
tiếp tục trào ra. Tôi thấy mắt Capri mở lớn nhìn tôi, nước mắt dàn dụa ứa ra
từ hai khóe mắt của nó, như thể nó còn muốn nói điều gì đó với tôi, chưa muốn rời bỏ tôi, chưa muốn ra đi, chưa
muốn khép lại những cuộc vui đùa trên chiếc sân chơi hẹp tí của cuộc đời một
chú chó chẳng mấy khi có được những ngày no…
Tôi chôn Capri
dưới gốc cây ổi sẻ cuối vườn rồi đặt lên trên hai viên gạch lớn để làm dấu. Mùa
đông hậu chiến sẽ thêm dài khi không còn Capri nữa. Ngồi dưới gốc cây ổi sẻ,
tôi không khóc, nhưng như có một gọng kìm thít chặt lấy trái tim tôi. Capri là
con chó đầu tiên và cũng là cuối cùng cuộc đời tôi chọn là bầu bạn với mình. Dưới
hố sâu thăm thẳm 40 năm của lãng quên, đêm qua Capri lại đến nằm dưới chân tôi,
ngước đôi mắt vàng sáng đầy tin tưởng nhìn tôi, chờ tôi cúi xuống vuốt ve, nói
chuyện với nó, và để tôi thấy tôi vẫn là một cậu bé như ngày nào trên bãi biển
mùa đông đang dạo chơi cùng con chó yêu quý của mình...
Capri, bạn ta!
Mi là người bạn duy nhất không một lần lừa dối tao, không một lần chối bỏ và phản
bội tao… Ở tuổi tri thiên mệnh, tôi mới bất ngờ nhận ra điều đó!
Trần Thanh Sơn (12.2016)
Ảnh: From “Dog” (Ed Ruscha)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét