Thứ Hai, 19 tháng 3, 2018

Con tắc kè hoa vĩ đại

 
“Nhạc sĩ tắc kè hoa, người đàn ông của một
ngàn lẻ một phong cách...” (Olivier Messiaen)

 
Cả tuần lễ liền thấy lòng lâng lâng vui sướng vì vừa tậu được bộ đĩa “Igor Stravinsky: The Complete Columbia Album Collection” do Sony Classical phát hành. Đây là bộ sưu tập lần đầu tiên trình bày trên CD (bao gồm 56 đĩa + 1 DVD) tất cả các đĩa LP trong loạt đĩa “Stravinsky conducts Stravinsky” được ghi âm trong những năm 1940, 1950 (mono) và 1960 (stereo) của CBS/American Columbia; bộ sưu tập cũng bao gồm tất cả các buổi trình diễn do Robert Craft - trợ lý của Stravinsky tiến hành trong sự hiện diện của nhà soạn nhạc, khi tuổi tác và tình trạng sức khoẻ đã hạn chế khả năng làm việc của ông. Có thể nói, đây là bộ sưu tập thể hiện rõ và trung thành nhất quan điểm của Stravinsky đối với gần như tất cả các tác phẩm âm nhạc của mình. Sở hữu thêm bộ đĩa, số CD collection tác phẩm của nhà soạn nhạc tôi yêu thích nhất này “hân hạnh” nhảy vọt lên con số trên 80 đĩa!
 
Nhạc phẩm Stravinsky đầu tiên tôi được nghe trong đời không phải Rite of Spring cũng không phải Firebird nổi tiếng mà là Pulcinella Suite trên chiếc đĩa 33 tours cũ mèm trầy xước mua ở vỉa hè Tân Định khoảng đầu thập niên 1980. Pulcinella Suite được Decca phát hành kèm theo Giao hưởng No.1 cung Đô trưởng của Bizet với hình bìa đĩa là bức tranh “Người thổi sáo” tuyệt đẹp của Manet. Thời trẻ, chẳng hiểu vì sao tôi không thích âm nhạc Bizet, Symphony No.1 của Bizet lại càng không phải là một tác phẩm hấp dẫn gì, thế nên, rất may cho tôi là Pulcinella không bị cái cảm giác có bề thiên kiến ấy mà... chìm lỉm theo! Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không hiểu lý do gì Decca lại phát hành Stravinsky chung với Bizet, vì như tôi nghĩ, chẳng có điểm chung gì giữa hai nhạc sĩ này, chưa kể, hình như Stravinsky chưa  bao giờ là một nhạc sĩ của trường lãng mạn, trừ sự quan tâm của ông dành cho nó như là một trong những nguồn chất liệu cho các sáng tác phẩm dưới chiếc-áo-choàng Tân cổ điển của mình. Và như thế, Pulcinella Suite, tác phẩm được xem là tiên khởi cho trào lưu Tân cổ điển này đã đưa tôi đến với thế giới âm thanh của nhà soạn nhạc, nhà phù thủy, nhà giả kim thuật vĩ đại nhất của lịch sử âm nhạc thế kỷ XX: Igor Stravinsky.
 
Các nghiên cứu và đánh giá thường chia sáng tác của Stravinsky ra làm 3 thời kỳ chính: thời kỳ Nga, thời kỳ Tân cổ điển, và thời kỳ khởi từ năm 1954 cho đến khi ông mất - sử dụng kỹ thuật âm nhạc chuỗi dodecaphony. Có thể thấy, mẫu số chung đều cho rằng các tác phẩm thời kỳ Nga của Stravinsky là những tác phẩm đỉnh cao không thể bàn cãi (ngay cả Rite of Spring - tác phẩm từng gây ra scandale ồn ào nhất trong lịch sử âm nhạc ở lần ra mắt đầu tiên năm 1913 - cũng được tuyệt đại đa số thống nhất xem là thành tựu quan trọng không chỉ đối với Stravinsky mà còn của cả nền âm nhạc thế kỷ XX); riêng 2 thời kỳ sau đó thì lại có nhiều khác biệt trong cách đánh giá, thậm chí là ở hai cực đối nghịch của sự khen chê. Trong lịch sử âm nhạc, có lẽ Stravinsky là nhà soạn nhạc duy nhất gây ra sự phân cực một cách kỳ lạ đến như vậy, dẫu rằng ngay sau ông, ở trường hợp John Cage, cũng có sự phẩm bình ngược chiều tương tự, tuy nhiên, đấy lại là chuyện khác...

Như đã đề cập ở trên, với Pulcinella Suite (1920) - chiếc bản lề của cánh cửa mở sang thời kỳ Tân cổ điển mà tiếp theo đó là hàng loạt những tác phẩm mới của Stravinsky như Octet, Concerto for Piano and Winds, Serenade in A, Symphony of Psalms… - Stravinsky lập tức bị dư luận dồn dập công kích là sao chép, bắt chước tác phẩm của các nhạc sĩ cổ thời, “từ bỏ di sản Nga”, hủy diệt phong cách cá nhân, tầm thường hóa sự sáng tạo… Tờ The Musical Times (1923) gọi đó là trò “theo đóm ăn tàn”, không ít nhạc sĩ đương thời còn thẳng thừng tuyên bố đó là thứ âm nhạc “hoàn toàn vô nghĩa”, “một triệu chứng của bệnh thoát ly thực tế”...(1) Đỉnh điểm, trong “Philosophy of Modern Music” (1949), Theodor Adorno (2) -  người ủng hộ nhiệt thành âm nhạc tiền phong đã gọi âm nhạc của Stravinsky là “phản động”, “âm nhạc phỏng theo âm nhạc”, “thứ âm nhạc mà từ đó âm nhạc sẽ bị hủy diệt”, thậm chí nặng lời xem đó là sự cuồng loạn, “chứng tâm thần phân lập”. Nhà chỉ huy dàn nhạc nổi tiếng Ernest Ansermet (3), bạn của Stravinsky, cũng chỉ trích âm nhạc của Stravinsky “không còn là một biểu hiện mỹ học của đạo đức học con người” và nặng nề quy kết ông là “nghèo nàn về mặt tâm hồn” (!) Cho đến tận những năm 1970, vẫn với bầu khí đó, trong tiểu thuyết ngắn “Bản giao hưởng Baroque”, Alejo Carpentier (3) còn giả tưởng cho các nhân vật trong truyện của mình là Vivaldi và Handel, hai nhà soạn nhạc sinh trước Stravinsky nhiều thế kỷ chuyện trò phẩm bình trước nấm mồ của ông (Stravinsky mất năm 1971): “Một nhạc sĩ giỏi, nhưng cổ lắm rồi, đôi lúc ngay cả trong những dự định của ông ta cũng đã cổ lắm rồi”, “Ở đó vang lên cả những bản nhạc ngắn theo phong cách Trung cổ mà chúng ta đã bỏ lại phía sau từ rất lâu nay… trong trường hợp này chúng ta hiện đại hơn nhiều”(4)…
 

Điều gì đã khiến tác giả của những vở ballet được nồng nhiệt tán thưởng như Firebird, Petrushka, Soldier’s Tale bỗng chốc bị kết án như một tội đồ của âm nhạc? Để có thể hiểu được phản ứng kỳ lạ này của giới kinh viện và các nhà phê bình, có lẽ cần nói sơ qua cách làm không giống bất kỳ một nhà soạn nhạc nào từ cổ chí kim của Stravinsky, khi, không chỉ mượn cảm hứng từ toàn bộ lịch sử nền âm nhạc Tây phương, sử dụng lại những nguyên lý từng bị lãng quên của âm nhạc quá khứ, mà còn “nhại” cả ngôn ngữ, phong cách âm nhạc của các bậc thầy vào những sáng tác phẩm của mình. Với Pulcinella Suite chẳng hạn, dựa vào âm nhạc của Pergolesi (và Gallo), bằng hình thức, phong cách, biên chế dàn nhạc theo đúng kiểu cách baroque của họ (6), Stravinsky chỉ thay đổi một ít cấu trúc, triển khai và biến hóa những chất liệu sẵn có, như, tạo ra những động lực mới từ sự mất cân bằng một cách cố ý trong cách thức phối khí khác lạ (ví như đoạn duo chơi fortissimo giữa trombone và contrabass solo ở hành âm thứ 7), hay, thêm vào bên dưới giai điệu cơ bản những hòa thanh mới, thậm chí cả “giai điệu Nga, hơi thở Nga” (như ở hành âm cuối cùng); chậm chạp nhưng quyết liệt, sự hiện diện của Stravinsky trong nhạc khúc kiểu thế kỷ 18 này càng lúc càng đậm nét cho đến khi ông lộ diện hoàn toàn ở đoạn kết thúc và áp đảo đóng ấn triện Stravinsky thế kỷ 20 vào bản nhạc. Cứ tiếp tục như thế, ta thấy, có bóng dáng Lully và các bậc thầy baroque trong Apollon Musagète; có bóng dáng J.S. Bach trong Concerto for Piano and Winds, Dumbarton Oaks Concerto; có Mozart trong The Rake’s Progress, Tchaikovsky trong The Fairy's Kiss; có Perotin, âm nhạc phức điệu cổ, Monteverdi, Gesualdo, Gluck, Weber, Verdi, Wolf, Schoenberg, nhạc Jazz v.v… và v.v… nhưng cũng có cả sự hiện diện thường trực đặc quánh bản sắc, hơi thở và giọng điệu cá nhân không lẫn vào đâu được của Stravinsky - nhà phù thủy, nhà tạo tác âm thanh của thời đại mới!
 
Giống đứa trẻ được trao vào tay một cuốn tranh khắc của thế kỷ 18 không hề nhận thức được chút gì lỗi lầm khi vẽ thêm râu tô mũi đỏ vào cuốn sách quý mình đang nắm trong tay - nhà soạn nhạc Constant Lambert từng công kích Stravinsky như vậy (7). Cũng kiểu cách đó, Adorno gọi cách làm của Stravinsky là “bạo lực”, “hành hung âm nhạc”, “dấu hiệu của một sự cưỡng bức xã hội”… Còn nhiều nữa, nhiều nữa, những lời dèm pha, công kích và buộc tội. Thói thường là vậy, những kẻ trụ trì đền thiêng và những kẻ luôn tự phong cho mình cái độc quyền bảo vệ hoặc tiến hành cách mạng đều cảm thấy như bị trêu ngươi khi nghĩ rằng người ta đang hí lộng quỷ thần ở ngay chốn thiêng liêng tôn kính của mình, đồng thời điên lên với những việc mà họ cho là đi ngược với những bước-phát-triển-tất-yếu nào đó theo cách nghĩ của họ (với những “…isme” này nọ, những kẻ động đến bàn thờ còn có thể bị tàn hại, bị truy bức nữa là đằng khác!), họ kết tội Stravinsky đang phá hoại âm nhạc, “phản môn đồ sư”, chạy theo chủ nghĩa chiết trung, và thậm chí, là thế lực đối lập cản trở con đường phát triển của âm nhạc!
 
Năm 1998, Tạp chí Time gọi Stravinsky là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20. Tinh thần nghệ thuật hậu hiện đại cuối thế kỷ 20 và tiếp tục ở thế kỷ 21 ghi nhận những dấu chân khai mở của Stravinsky, cho dù ông chưa bao giờ là một nhà hậu hiện đại. Cũng như Picasso trong nghệ thuật thị giác, từ những gốc rễ cội cành trong khu rừng của lịch sử âm nhạc quá khứ mà Stravinsky không ngừng lang thang nhặt nhạnh tìm kiếm, ông đã cấy ghép tạo tác nên cho nhân loại những loài kỳ hoa dị thảo mới, những lộng lẫy sắc màu mới, biến những làn u hương của quá khứ trở thành những thơm hương ngào ngạt của tương lai. Yêu âm nhạc của Stravinsky, trong một chừng mực cũng thể như phải chấp nhận yêu lấy toàn bộ di sản âm nhạc Tây phương thông qua trái tim, thông qua cách nhìn, cách chiếm hữu, cách hạnh phúc, cách khổ đau và cả cách phụ rẫy của con người thường được xem là một con tắc kè hoa vĩ đại nhất của âm nhạc hiện đại (8).
 
Mỗi khi nghe lại Stravinsky, trong nỗi hân hoan vui sướng mà âm nhạc của ông mang tới cho mình, tôi thường mường tượng gương mặt ông với đôi kính tròn trắng gọng đồi mồi quen thuộc mà tôi từng được xem đâu đó trong một cuốn phim tư liệu ngắn. Ông ngồi bên dương cầm, trên tường là bức chân dung Mozart nhìn nghiêng, ông dùng bút chì sửa chữa một trang tổng phổ nào đó của mình, ông kể lại kỷ niệm về một tác phẩm cũ, lông mày ông rướn lên vào mỗi cuối câu, nụ cười hóm hỉnh, tinh quái, như thể ẩn sau nụ cười đó là lời thách thức: Âm nhạc của ta là thế đấy, hỡi những kẻ thù ghét nhạc ta ơi (9), hãy chống mắt lên mà xem! “Ảnh hưởng thực của Stravinsky chỉ mới bắt đầu!”(10)
Trần Thanh Sơn (3.2018)
 
 
(1) www.en.wikipedia.org/wiki/Igor_Stravinsky
(2) Theodor Adorno (1903-1969): Nhà xã hội học, triết học và âm nhạc học người Đức, nổi tiếng với lý thuyết phê phán xã hội. Ủng hộ nhiệt thành âm nhạc tiền phong, đặc biệt là âm nhạc 12 cung của trường phái Wien II. Adorno là người đưa khởi xướng kiểu mô tả: Schoenberg, nhân vật chính diện, đại diện cho tiến bộ; còn Stravinsky ở phía ngược lại, đại diện cho thế lực phản diện (!)
(3) Ernest Ansermet (1883-1969): Nhạc trưởng nổi tiếng người Thụy Sĩ.
(4) Alejo Carpentier (1904-1980): Tiểu thuyết gia, nhà bình luận, và nghiên cứu âm nhạc người Cuba. Được xem là người khởi xướng của trào lưu nghệ thuật huyền ảo ở các quốc gia Mỹ Latin.
(5) Alejo Carpentier - "Bản giáo hưởng Baroque", Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Tổng hợp Hậu Giang (1988).
(6) Giovanni Battista Pergolesi (1710-1736) và Domenico Gallo (1730-1768): Hai nhà soạn nhạc người Ý, thuộc thời kỳ Baroque.
(7) Constant Lambert - "Music Ho! A Study of Music in Decline", New York, Charles Scribner's Sons (1934) https://gutenberg.ca/ebooks/lambert-music/lambert-music-00-h.html (8) Trong một phát biểu, nhà soạn nhạc lừng danh người Pháp Olivier Messiaen (1908-1992) đã gọi Stravinsky là Nhạc sĩ tắc kè hoa, người đàn ông của một ngàn lẻ một phong cách…”.
(9) Mượn chữ từ câu thơ của Thanh Tâm Tuyền: “Như kẻ say rót rượu lấy mà uống/ Cho vui thêm cuộc hành trình/ (Ðúng rồi những người thù ghét thơ tôi ơi)/ Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc”.
(10) Phát biểu của Nhà soạn nhạc Louis Andriessen năm 1989 trong cuộc chuyện trò với Jonathan Cross “Sáng tác cùng Stravinsky” - Vũ Ngọc Thăng, dịch
 

Ảnh trên: From El Gecko (Robert Peluce)
 


Không có nhận xét nào: