Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2022

Dạ oanh

 
Tôi chưa nhìn thấy và cũng chưa được nghe tiếng hót của dạ oanh ngoài đời thực bao giờ. Tên gọi chim dạ oanh hình như chỉ mới xuất hiện trong những dịch bản tiếng Việt khoảng vài ba chục năm trở lại đây. Trước đó, khi chuyển ngữ các văn bản có nhắc đến dạ oanh, người ta thường đồng nhất loài chim này (trong cách gọi thông thường tiếng Anh “Nightingale”, tên khoa học Luscinia megarhynchos) với họa mi (Chinese hwamei, tên khoa học Garrulax canorus), hoặc đôi khi với sơn ca (Lark - tên khoa học Alaudidae) - hai loài chim mà những nghiên cứu về tập tính cho biết chúng chủ yếu chỉ hót vào ban ngày, khác với dạ oanh thường hay hót ban đêm. Theo các tài liệu điểu học cho biết thì xứ ta thì không có dạ oanh (1).
 
Từ buổi bình minh của văn học viết, dạ oanh đã được Homer nhắc tên và trở thành một hình ảnh thường xuất hiện trong thi ca, văn chương và âm nhạc Tây phương nhiều thời kỳ khác nhau như một biểu tượng văn hóa với ý nghĩa đa dạng. Dạ oanh tượng trưng cho nỗi buồn, cho nỗi ai oán sầu muộn, nhưng dạ oanh cũng là biểu tượng của mùa xuân, của tình yêu cháy bỏng, là hình ảnh ẩn dụ cho các nhà thơ cùng công việc sáng tạo của họ. Cuốn sách đầu tiên có liên quan đến dạ oanh mà tôi được đọc có lẽ là tệp truyện mỏng của Andersen nhan đề “Con chim họa mi” trong tủ sách gia đình tôi ngày còn bé. Câu chuyện về vị vua Trung Hoa khi được dâng tặng con họa mi giả có bộ phận máy móc tinh xảo có thể phát ra tiếng nhạc thì không còn quan tâm đến con họa mi thật cùng tiếng hót tuyệt diệu mà ông ta từng yêu thích nữa. Stravinsky có opera “Dạ oanh” (The Nightingale) sáng tác phỏng theo truyện ngắn cùng tên này của Andersen và giao hưởng thơ Khúc hát dạ oanh (The Song of the Nightingale) sử dụng chất liệu âm nhạc cùng lấy từ vở opera trên. Tôi có đến mấy bản thu âm The Nightingale”, nhưng thích nhất bản thu năm 1960 do The Opera Society of Washington thực hiện dưới đũa chỉ huy của chính Stravinsky. Gần đây xem thấy trên mạng, nhà hát Opera Canada vừa thực hiện lại vở opera này kết hợp cả múa rối nước và múa rối bóng trên sân khấu là một hồ nước lớn 67.000 lít; dàn đồng ca bao gồm hơn 30 nghệ sĩ, mỗi người được ghép nối với một con rối, họ hát và diễn xuất đồng hành cùng con rối của mình trong suốt vở diễn. Được xem dạ oanh xuất hiện trên nền âm nhạc Stravinsky cùng sân khấu lung linh tráng lệ như vậy chắc hẳn phải là một trải nghiệm tuyệt vời!
 
Trong nhiều thế kỷ, tiếng chim nói chung và tiếng hót của dạ oanh nói riêng đã là nguồn cảm hứng bất tận cho rất nhiều nhà soạn nhạc cổ điển phương Tây - từ Händel đến Glinka, từ Beethoven đến Ravel và Stravinsky, nhưng yêu tiếng hót dạ oanh và có nhiều nhạc phẩm viết về chim muông nhất có lẽ chẳng ai bằng Olivier Messiaen. Tự nhận mình là một nhà điểu học không chuyên, Messiaen đã đi khắp nơi trên thế giới để nghe tiếng hót các loài chim trong môi trường tự nhiên, ghi âm rồi chuyển dịch chúng vào âm nhạc. Trong các nhạc phẩm có liên quan xa gần đến chim muông của Messiaen, dù dạ oanh chưa bao giờ được trực tiếp nêu tên như ông từng làm với nhiều loài chim khác, thế nhưng chúng ta có thể nghe thấy tiếng hót dạ oanh bàng bạc trong rất nhiều tác phẩm, kể cả những tác phẩm lớn giữ vai trò quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông như: “Quatuor pour la fin du temps”, “Vingt Regards sur l'enfant-Jésus”, “Turangalîla Symphony”, “Messe de la Pentecôte”... Nghe nhạc Messiaen, những ai có thể nhận biết rành rẽ tiếng hót của các loài chim sẽ có cảm tưởng được dạo bước trong một khu rừng tụ hội tiếng ríu rít của chim muông khắp bốn phương trời. Đã nhắc tiếng hót dạ oanh trong âm nhạc không thể không nhắc tới “Pines of Rome” (Những cây thông ở Rome - 1924) trong bộ ba thơ giao hưởng viết về thành Rome của nhà soạn nhạc người Ý Ottorino Respighi. “Pines of Rome” là một tập hợp 4 bức tranh âm nhạc mô tả khung cảnh của thành phố Rome với những rặng thông xanh tuyệt đẹp. Trong hành âm thứ III - cảnh đêm trăng trên đồi Janiculum, ở gần cuối chương nhạc, Respighi đã cho phát tiếng hót thật của dạ oanh (được thu âm trước) hòa vào cùng âm thanh dàn nhạc đang diễn tấu. Tiếng dạ oanh của Respighi được xem là một sáng tạo mang tính đột phá, vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử âm nhạc một tiếng động cụ thể ghi âm từ môi trường thiên nhiên (không phải giọng người và nhạc cụ) được đưa vào tổng phổ dàn nhạc như một phân phổ bắt buộc. Xúc cảm tạo ra cho người nghe ở đoạn nhạc này rất lớn. Sau những hợp âm rải của dương cầm, hạc cầm và celesta sóng sánh như những tia sáng của một đài phun nước, trong không khí tĩnh lặng của đêm, tiếng dạ oanh từ xa vọng về, luồn qua những cành thông tối thẫm, quyện cùng tiếng độc tấu clarinet đang mơ màng một giai điệu chậm, trầm tư, trước khi được hạc cầm và vĩ cầm thì thào nhắc lại rồi nhẹ nhàng tan vào bóng tối...
 
Hàng xóm chỗ tôi hình như có nhà vừa nuôi họa mi. Buổi sáng thi thoảng nghe tiếng chim lấp lánh theo nắng sớm rót vào tận cửa sổ phòng ngủ. Tôi tính lười, lại ngại không có thời giờ chăm sóc nên chẳng dám nuôi chim dù rất thích nghe tiếng chim hót. Mặt khác tôi nghĩ, nghe chim hót, chẳng gì bằng một tiếng chim tự do. Vậy nên, hãy cứ để tiếng chim là sự tình cờ! Đêm rồi nghe trên mạng một đoạn ghi âm tiếng hót của dạ oanh lúc khuya vắng, nhắm mắt mường tượng tiếng chim này từng ca hát trong những đêm của Milton, của Keats, Lamartine, Heine và Verlaine… rồi rùng mình có cảm tưởng cái dòng chảy cuộn xiết vô hình của thời gian đã dừng lại giữa các khoảng lặng của tiếng hót vừa khắc khoải sầu muộn lại vừa đắm say mê hoặc ấy. Trong bóng tối, như có những đỉnh cao được bày ra cùng lúc với vực thẳm, và tôi, tôi thấy mình chênh vênh bước nơi chập chùng những xúc cảm chẳng thể gọi tên mà tiếng hát dạ oanh vừa khơi gợi... 
 
Nhận biết được tiếng hót của một số loài chim có thể làm phong phú thêm hiểu biết của một người về thế giới, đồng thời kết nối được trở lại phần nào mối giao hòa với cái đẹp thuần nhất, cổ xưa của thiên nhiên mà những thứ gọi là văn minh hiện đại đang khiến con người ngày càng xa rời và quên lãng. Đầu những năm 90, khi quanh vùng ngoại ô tôi ở còn chưa bị đô thị hóa và bê tông hóa đến kiệt cùng như bây giờ, những sáng Chủ nhật rảnh rỗi tôi vẫn thường thích đến uống cà phê ở một quán nhỏ nằm cạnh bìa một khoảnh rừng cao su gần nhà. Quán là nơi tụ tập của những người chơi chim, ở đó, xem ra chỉ có tôi là dân ngoại đạo! Ai đến quán cũng xách theo một lồng chim, họ chọn một gốc cây phù hợp treo lồng của mình lên rồi mới gọi cà phê, nhàn nhã nghe chim hót và trò chuyện phẩm bình tiếng chim của nhau. Ngồi ghé dưới vòm xanh cây lá, nghe lũ chim véo von và nghe gió rì rào lướt đi trên nền sớm mai là một điều tuyệt thú. Tôi nhớ, trong hội chơi chim có một tay mặt mũi trông dữ dằn chuyên mặc áo thun lộ cánh tay xăm hình vằn vện, loại người mà bình thường lỡ gặp, tôi né từ xa! Thế mà có lần anh ta đến ngồi chung bàn cà phê với tôi, nghĩ tôi là người cùng hội cùng thuyền, anh vui vẻ chỉ cho tôi cách nuôi và chăm sóc thế nào để chim hót hay, hay hót, giọng nói, nụ cười và cách cư xử hiền khô! Phải chăng, phàm đã biết yêu mến chim muông cầm thú, khó có thể là một con người hung tợn? Hoặc giả, loài chim cùng tiếng hót của chúng đã chuyển hóa, gột rửa khiến tâm hồn anh được thành như vậy? Chẳng phải cái tên vua Trung Hoa u mê si ngốc chạy theo tiếng kêu của con chim giả mà cũng được cứu vớt vì từng có một lần biết thực sự nhỏ lệ khi nghe dạ oanh cất tiếng hay sao?
 
Xem ra dạ oanh, hay họa mi, hay sơn ca, những định danh thì có gì quan trọng? Niềm yêu mến và tôn vinh mà con người dành cho loài chim đâu phải đến từ tên gọi. Điều cốt yếu nằm ở chiều sâu của toàn bộ cái gánh nặng thời gian mà nhân loại đã ký thác vào trong tiếng chim hót: những huyền sử đầy máu và nước mắt, những ước mơ bị dập vùi, nỗi sợ hãi, sự oán giận, những hy vọng, những tuyệt vọng, và trên tất cả - sự tha thứ và lãng quên. Ẩn mình trong bóng đêm xuân tiếng dạ oanh, trên cành biếc miền rừng khúc họa mi, hoặc lơ lững lưng trời lảnh lót sơn ca, tất cả những thanh âm đó chỉ là tiên khởi cho những dội vang từ lòng giếng tâm hồn của chính từng cá nhân con người khi họ chịu mở lòng ra với chính bản thân mình. Lại nghĩ đến một khía cạnh khác trong câu chuyện nhỏ của Andersen về tiếng hót dạ oanh. Ngày nay chim dạ oanh giả bụng gắn máy ca hát vang vang hiện diện khắp nơi. Không những vậy, người ta còn cổ xúy, tán thưởng và cho sản xuất hàng loạt loại chim mang tâm hồn máy móc này đúng như lý do mà vị đại quan trong truyện của Andersen đã từng viện dẫn: “Với con chim thật thì chẳng ai biết trước được là nó định hát cái gì, nhưng với con chim giả thì các bài hát được sắp đặt trước theo thứ tự cố định” rất dễ kiểm soát! (2) Tuần tự nhi tiến, cứ thế mà làm, dạ oanh giả bây giờ cũng được ban cho bội tinh, bạc vàng, danh hiệu, được ca ngợi được trọng vọng có thua gì chim giả của hoàng đế xưa. Bạn nghe thấy không? Quanh ta, tiếng đám chim giả đang véo von đấy...    
Trần Thanh Sơn (7.2022) 
 
 
(1) Nguyễn Cử, Nguyễn Trọng Trải, Karen Phillipps, “Chim Việt Nam - Sách hướng dẫn về các loài chim ở Việt Nam”, NXB Lao động - Xã hội, 2000
(2) Hans Christian Andersen, “Chim họa mi - Truyện cổ Andersen”, Nguyễn Văn Hải - Vũ Minh Toàn dịch, NXB Đà Nẵng, 1986
 

 Ảnh trên: From “Persian Nightingales” (Paul Klee)

Không có nhận xét nào: