Đọc bài thơ ngũ ngôn trong cuốn sách bàn về thuật
chơi chữ của người xưa, lòng cứ bâng khuâng mãi. Tác giả Lãng Nhân bình bài thơ
bằng một câu ngắn gọn thế này: “Thơ ngũ ngôn dùng kể tự sự, ít có bài được lời
mộc mạc mà tứ sâu sắc bằng bài liên vận sau đây của ông Phan Hoài Dật đọc lên
mường tượng như câu chuyện Từ Thức lúc ở động tiên trở về trần thế” (*). Xin
đăng lại bài thơ ấy ở đây để bạn đọc cùng thưởng thức (và nếu thích, thì ngẫm nghĩ). Thế nhân thời nào cũng vậy, huống chi là thời đảo-điên-điên-đảo bây giờ! (TTS
- 9.2023)
Truyện ông Viên Hộ
Tôi biết ông Viên Hộ
Người ở đất Vân lỗ
Thuở nhỏ vốn học trò
Lớn lên thi không đỗ
Sau ông đi đá gà
Với tôi thường lại
qua
Thuở ấy tôi còn bé
Bạn với ông hơi già
Ông người rất hào hiệp
Ban ngày mỗi mỗi tiếp
Đá gà mà phong
lưu
Rộn ràng thê với thiếp
Rảnh việc lại
ngâm thơ,
Uống rượu hay đánh cờ
Bề nào ông cũng
thích
Thoi đưa mặc ngày giờ
Tôi lớn phải đi
học
Toán làm với
sách đọc
Lúc ấy ông già khọm
Mồi da mà trắng tóc
Sau thôi học tôi về
Tìm bạn cũ nằm tê
Hỏi đến ông Viên Hộ
Ông chết răng chừ kia
Tôi lấy làm
thương nhớ
Nhớ bạn già than
thở
Bèn đến nhà ông
thăm
Nhà ông khách lạ ở
Tôi hỏi gia quyến ông
Còn ở, ở đâu không?
Vợ ông đi đâu mất!
Hầu ông đi lấy chồng
Tôi trở về chán
ngắt
Buồn cho thân kẻ
khuất
Ông sống nhiều người thương
Ông chết không ai nhắc!
Than ôi! Cái cuộc đời
Sống: còn, đến
chết: thôi
Người thương nói
“tội nghiệp!”
Thế là xong chuyện rồi
Xong rồi! Xong rồi thật!
Không! Còn! Còn
nắm đất!
Gió thổi nắm đất
bằng
Thế là còn hay mất?
Đời lắm ông Viên Hộ
Có đó, không
ngay đó
Nghĩ thương cái
hình hài
Thoảng qua như chiều gió
Thử ngày sau ông Viên
Sống lại nhờ
phép tiên
Trở về nơi đất
cũ
Hỏi thăm kẻ láng giềng
Còn ai nhớ đến ông?
Ai ai cũng rằng không!
Thì ông cười hay khóc?
Ông về thật luống công
Ngó lại trên trời cao
Cảnh trời có khác sao?
Mây đen đuôi mây
trắng
Khi nào như khi nào...
Cỏ hoa sao hững hờ?
Chào mãi vẫn làm
lơ
Ôi! khách đà khách cũ!
Hoa này phải hoa xưa?
Bước vào nhà
thăm hỏi
Cửa nhà lâu đã rụi
Thầy thợ đang xây nền
Chực làm cái nhà mới
Chủ nhà đắc ý lắm!
Tới ngắm rồi lui
ngắm
Cười reo vênh
váo râu
Nhà này xét không thấm!
Ông Viên tất bật
cười
Cười mà thương
cho ai
Tưởng một mình
ông dại
Ngu mà cũng có đôi!
Người đời còn mãi thế
Được oa mà muốn
bể
Múa gậy giữa vườn hoang
Cũng rung đùi rung vế
Ai bảo người
khôn đần
Khôn vẽ rắn thêm
chân
Hại nhau khôn kế quỉ
Cướp của khôn mưu thần
Người khôn là thế
đó
Nực cười ông
Viên Hộ
Chống gậy về núi than:
“Có khôn chi mô
có!”.
Phan Hoài Dật
(*) Lãng Nhân, “Chơi chữ”, trang 121, NXB Nam Chi
Tùng Thư - 1970
Note: Theo “Chơi chữ”, tác
giả bài thơ “Truyện ông Viên Hộ” là Phan Hoài Dật. Tôi đã thử nhờ google search
tên “Phan Hoài Dật” nhưng không tìm thấy bất cứ tài liệu nào liên quan đến danh
tính này ngoài đường dẫn đến chính tác phẩm “Chơi chữ” của Lãng Nhân. Tuy
nhiên, trong bài viết của Nguyễn Hùng đăng trên vanchuongviet.org (Phan Văn Dật
không chỉ có Diễm Dương Trang), tác giả Nguyễn Hùng có nêu một chi tiết: Phan
Văn Dật - người đã được Hoài Thanh - Hoài Chân chọn đưa vào “Thi nhân Việt Nam”
là tác giả của bài thơ có tên gọi “Bài thơ ông Viên Hộ” (Nam Phong), chẳng rõ
hai bài thơ có phải là một?
Note (update): Tôi đã tìm được bản gốc bài thơ (có tên “Tôi ở đâu” hay “Chuyện ông Viên Hộ” của Phan Hoài Dật) đăng trên tạp chí Nam Phong (Số 125 - Tháng 1.1928). Bài thơ theo thể liên vận không tách từng khổ 4 câu xuống hàng và thêm một vài dấu câu (có lẽ để cho rõ nghĩa và độc giả cũng dễ đọc hơn) như tác giả Lãng Nhân đã dùng trong “Chơi chữ”.
Ảnh trên: From “Light and Shadow” (Cao Hành Kiện)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét