Thời gian gần đây tôi thấy mình làm biếng quá. Bản tính xưa nay đã lười
mà giờ còn lười thêm gấp bội. Xong việc ở sở về đến nhà là tôi ngồi thừ ra,
chẳng muốn làm gì! Mấy cuốn sách đang đọc dở dang cứ tiếp tục để dở dang như
thế. Viết lách chẳng thấy hứng thú. Nhạc cũng chẳng buồn nghe, hoặc có nghe thì
nghe nhảy cóc, được chăng hay chớ. Trước đây tôi có thói quen, hễ “dính vào”
nhạc của một nhà soạn nhạc nào đó là bằng mọi giá phải bỏ thời gian nghe toàn
tập, chí ít cũng là “toàn bộ” trong giới hạn những đĩa hát mà mình có thể tìm
kiếm, sưu tập được. Giờ thì tôi nghe lung tung theo kiểu ngẫu nhiên. Thỉnh
thoảng mở danh mục đĩa của mình lên nhắm mắt chọn đại lấy một số hiệu đĩa nào
đó, nghe chán thì dừng, mở bài khác, cứ thế!
Tết Sài Gòn năm nay nóng như sôi tạo cảm giác
mệt mỏi, gấp gáp, vội vàng. Cũng dịp Tết, gia đình tôi cùng gia đình 2 đứa em
nổi hứng kéo nhau đi chơi: Ninh Thuận, Nha Trang rồi Đà Lạt. Chuyến đi cập rập,
thiếu chuẩn bị nên lịch trình đơn điệu và gây mệt. Mỗi gia đình cứ lên xe là nổ
máy chạy, đi mà chẳng định trước được là sẽ tới những đâu. Hôm rời Nha Trang
lên Đà Lạt, dừng xe trên đỉnh đèo Khánh Lê nhìn những đám mây mù kéo nhau hết
núi cao sang lũng thấp, khi dồn tụ khi tan loãng, thản nhiên như vẫn bay vậy từ
hồng hoang đến tận bây giờ, bất giác nghĩ đến cái chớp lóe ngắn ngủi và vô
nghĩa cuộc đời mình, cuộc đời con người nói chung trước vĩnh cửu. Cái nhịp điệu
và chuyển động chập chùng ấy, nơi sâu thẳm, như thể đột nhiên hé lộ sự hiện
diện của một kẻ dấu mặt nào đó, là nguyên do của mọi nguyên do, đang bỡn cợt
ghẹo trêu sự vô nghĩa đến cực cùng của tồn tại con người. John Luther Adams có
một nhạc phẩm khá thú vị về những đám mây chìm nổi nơi cao xanh kia: “Clouds of
Forgetting, Clouds of Unknowing”. Tác phẩm dựa trên một văn bản Cơ đốc giáo thời Trung
cổ có cùng tên gọi, nội dung hướng dẫn con người cách thức tu tập cầu nguyện từ bỏ cái tôi chủ
quan bé mọn để có thể xuyên qua mây mù của sự vô minh tìm được sự hiệp thông
với Thượng đế. Buổi sáng đứng nghe gió reo trên đỉnh đèo mây phủ lạnh
buốt ấy, loáng thoáng trong tâm tưởng tôi là câu thơ của T.S. Eliot mà Adams đã dùng làm đề từ cho tác phẩm âm nhạc mang đầy tính chiêm nghiệm của
mình: “We must be still and still moving/ Into another intensity/ For a further
union, a deeper communion/ Through the dark cold and the empty desolation”. Người
ta có thể nhìn thấy được cái hư ảo bên trong những cái hư ảo hay không?
Nghe nhạc lung tung theo kiểu ngẫu nhiên cũng có cái thú. Chẳng khác mấy
với việc nhảy đại lên một chuyến tàu lao thẳng vào vô định, ta sẽ không bao giờ
biết được con xúc xắc ta vừa gieo sẽ đưa ta đến với xứ sở nào, vùng đất nào của
thế giới âm thanh. Chuyến đi ấy có thể thú vị mà cũng có thể chán phèo, tùy may
rủi. Người ta bảo, mỗi cuộc đời - chẳng gì khác - chính là một tổng hợp của
những sự kiện tình cờ, những lựa chọn hú họa, mù lòa, bất quy tắc. Để sự ngẫu
nhiên dẫn dắt cả trong những thú vui tiêu khiển mà hạn hẹp cuộc đời lẽ ra ta
được quyền lựa chọn, có vẻ như thêm một lần nữa ta để tất tật đời ta cho rủi
may định đoạt! Bỗng dưng nhớ một kỷ niệm dù chẳng mấy liên quan đến chuyện
nghe nhạc lung tung theo kiểu ngẫu nhiên. Thập niên 1980, thời còn say mê với
thú chơi đĩa nhựa, có lần tôi mua được ở chợ trời đồ cũ vỉa hè một mớ gần hai
chục đĩa nhạc cổ điển còn tốt nguyên với giá rẻ đến bất ngờ. Một gia đình nào
đó đã sơ ý để đám đĩa hát của mình bị mối xông, không chỉ bao bì mà cả nhãn dán
trên mặt đĩa cũng gần như bị đám ác trùng ăn sạch! Ngoài vài mẩu nhãn còn sót
lại trên một số đĩa mà nội dung mất trước mất sau, phải vừa đọc vừa đoán, đám
đĩa “hoàn toàn trần trụi” theo đúng nghĩa nhất của cụm từ này! Thời đó, chưa có
khái niệm internet, sách vở tài liệu gì cũng không, để nhận diện được mớ đĩa chỉ
có thể dựa vào hiểu biết và trải nghiệm nghe cụ thể của từng cá nhân. Đám đĩa này, trừ những đĩa có
tính phổ thông của Mozart, Beethoven, Schubert hoặc Tchaikovsky, hầu hết tôi
phải nhờ anh K - một “chuyên gia” có kiến văn rộng và am tường nhạc cổ điển tôi
quen khá thân trong giới sưu tập đĩa hỗ trợ. Tuy vậy, vẫn còn khá nhiều
bản nhạc anh lắc đầu bảo chịu thua, “phong cách âm nhạc này mình chưa nghe bao
giờ, có lẽ của các nhạc sĩ đâu đó khu vực Đông Âu Slav”. Anh nói để anh nhờ thêm vài
người bạn xem thử thế nào. Tôi OK, rồi quên bẵng đi. Cuộc sống ngày càng bận
rộn, mọi thứ cứ tuồn tuột trôi về phía quá khứ: những người quen cũ, những thú
vui cũ, những đam mê cũ, cả tuổi trẻ nữa... Thoắt một cái thì đã hơn ba chục năm!
Mở danh mục đĩa số được sắp xếp kỹ càng theo tên tác giả, tác phẩm, số hiệu đĩa
trên máy tính, tự nhiên nghĩ đến mớ đĩa vô-danh-tính ngày xưa. Chẳng biết những
chiếc đĩa tôi đưa anh K năm nảo năm nao có còn tồn tại? Và âm nhạc nằm trong
những chiếc đĩa bị mất nhãn đó, anh đã nhờ bạn bè tìm lại được tên cho chúng
hay chúng vẫn mỏi mòn đợi người mắt xanh chạm đến, nhận ra và gọi đúng tên gọi
cho mình?
Một người bạn cùng khóa sáng
tác ngày xưa ở nhạc viện có lần vào blog của tôi đọc bài rồi để lại
comment, đại khái bảo, thời buổi này mà còn nhạc nhiếc mơ màng mộng mị trên mây
được sao? Đó là một nhận xét hơi lạ lùng và nhuốm vị cay đắng, đặc biệt với người
cũng từng một thời “nhạc nhiếc mơ màng” như cô bạn tôi. Dù vậy,
tôi không ngạc nhiên cũng chẳng cảm thấy bị thương tổn hoặc buồn lòng gì
vì câu nhận xét đầy vẻ khiêu khích đó. Khi một xã hội ngày càng trở nên dung tục,
hỗn loạn, thiếu vắng ý nghĩa, thiếu vắng cái đẹp, sự trống rỗng ghê rợn trong
tâm hồn con người sẽ được che chắn, ngụy trang và hợp thức hóa bằng
lớp bình phong của cái được gọi là tính thực tế. Tính thực tế (mà ngày nay đa phần đã
biến thành thực dụng) thậm chí sẽ trở thành một lối sống, một niềm tin, một thứ
tôn giáo được truyền bá, gieo rắc và nhanh chóng lây lan trong mọi biểu hiện của đời sống xã hội; và, người ta sẵn sàng xem là không hợp lý tất cả những gì ngược lại với thứ đặc tính đã mặc nhiên biến thành
quy chuẩn sống đó. Nơi thâm tâm tôi luôn muốn nghĩ rằng, cô bạn tôi trong lúc
xuất kỳ bất ý bực tức, hoặc giả chỉ vì muốn đùa ghẹo tôi mà buông lời như vậy.
Đối với những kẻ đã từng yêu thích và tôn sùng nghệ thuật, chẳng gì bi thảm cho
bằng sự vỡ mộng và sụp đổ niềm tin vào những thứ mà một ngày họ chợt nhận ra rằng,
những thứ đó - thứ nghệ thuật mà họ yêu thích và tôn sùng đó - hóa ra
chưa từng cứu rỗi được cho ai, chưa từng hoán cải được bất cứ cái gì, điều gì cho cái thế giới mà họ đang tồn tại. Như người cố gắng lấp đầy vũ trụ
của mình bằng những bóng ma chỉ để không phải sống một mình, một ngày bỗng chợt nhìn ra sự vô vọng của việc mình làm...
Stefan Zweig có một truyện ngắn rất buồn kể về một nhà sưu tập nghiệp
dư sở hữu bộ sưu tập khổng lồ những phiên bản tranh khắc vô giá của Rembrandt,
Mantegna, Durer... Chiến tranh, lạm phát, túng quẫn đã buộc vợ con ông phải
dần hồi bán sạch số tranh ấy để sống, thế nhưng nhà sưu tập già mù lòa không hề
hay biết gì cả. Hàng ngày ông vẫn đắm chìm trong thế giới mộng ảo của riêng mình, vẫn
tiếp tục mân mê, sờ mó, nâng niu những-bức-tranh ông sưu tập được mà không biết
rằng giờ đây chúng đã bị tráo bằng những tờ giấy trắng! Đỉnh điểm của tấn bi
kịch là khi ông già mù tội nghiệp mang “bộ sưu tập vô hình” (1) của mình ra rồi lần
lượt từng bức một, hãnh diện khoe với khách đến thăm... Than ôi! Cuộc đời chẳng thiếu gì những trạng huống thê lương như vậy! Không phải hàng ngày ta vẫn thấy quanh ta những kẻ
chỉ sống bằng cái vang bóng của vàng son đã mất, những kẻ tự dựng ảo ảnh và tự
lừa mình vào ảo ảnh đấy sao? Tệ hơn, hàng đống người vẫn chấp nhận che mắt bịt tai chịu bị lừa và tiếp tục hoan hỉ sống dưới cái bóng của một thứ lý tưởng nào đó đã mất, đã bị đánh
tráo. Bọn họ thì khác gì ông già mù thảm hại kia của Zweig? Cái đẹp thì hư phù. Cioran viết: “Mọi lý tưởng về cái đẹp đều bao hàm một lượng ảo ảnh không đong đếm được”. Nghệ thuật cũng là một trò lừa mị tung hứng cái đẹp ảo ảnh. Một trong những lý do con
người tạo nên nghệ thuật có lẽ nhằm dựng lên cho mình một thứ sương mù giúp che
lấp bớt những xấu xa ô nhục của thế giới thực tại. Xem ra cái đẹp là để bịt mắt, chẳng cứu giúp cứu vớt cứu rỗi cho cái quái gì được cả! Đám nghệ sĩ rỗi hơi tự dựng nên những thành
vách ảo ảnh cho chính mình nhưng đồng thời cũng vô tình tạo ra những ảo tượng cho những khách bộ hành đi ngang sa mạc của mình, thế thôi!
Nghe nhạc lung tung ngẫu
nhĩ đưa tôi bất chợt nhảy từ Lera Auerbach sang James Tenney, từ Gosta Nystroem
đến Kimmo Hakola rồi lại thình lình từ Michael Torke ngược về Friedrich Cerha.
Cái thú lớn nhất của kiểu nghe này là sau một tác giả với một phong cách âm
nhạc, gần như chắc chắn ta sẽ được đổi sang một tác giả khác với một phong cách
khác mà đôi khi, khác biệt nhau trời vực. Tuy vậy, hạn chế lớn nhất của việc
nghe lung tung cũng ở chỗ này, bởi nghe một tác giả thông qua chỉ một tác phẩm
có khi chỉ là xem xét một cái chân voi! Tuần này, lựa chọn ngẫu nhiên trong
danh mục đĩa dẫn tôi quay lại với Bern Alois Zimmermann và “Stille und Umkehr”
- một soạn phẩm cho dàn nhạc dài 10 phút trên nền tảng của chỉ một nốt Ré.
Người ta bảo nhạc phẩm được Zimmermann sáng tác lúc bị giam trong bệnh viện
vì căn bệnh trầm cảm - chỉ vài tháng trước khi ông hoàn thành tác phẩm cuối
cùng đầy u tối “Tôi quay lại nhìn thấy mọi nỗi bất công diễn ra dưới ánh mặt trời”, rồi tự sát (2). Kiên trì đến lạnh lùng, quyết tâm đến chai sạn, âm Ré của
bản nhạc hệt một “cuộc người” cứ lầm lũi đẩy mình về phía trước trong tiếng gõ
nhịp bất định của trống lẫy (snare drum) từng hồi hối thúc và những vệt âm hình
giai điệu của các nhóm nhạc cụ như ảo ảnh lúc xa lúc gần chập chờn dẫn dụ. Đấy
là một hành trình cam chịu, cam chịu cho đến khi tàn cuộc. Con người, có cần tiếp
tục chăng cuộc tìm kiếm, dọ hỏi, truy vấn muôn đời ấy, nếu như từng có một điều
gì đó có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn đã được tìm thấy? Chao ôi, trong cái oi bức
khó chịu của mùa khô đến sớm, trong sự lười biếng chưa có điểm dừng và gần như
bất tận, có cảm tưởng tôi là một con nhện đang treo mình sát mí vực hư vô vẫn
không ngừng giăng mắc buộc ràng và lừa mị mình bằng những trò ảo mộng dẫu thừa
biết những rối rắm tào-lao-xịt-bộp ấy chẳng để làm gì, chẳng thể cứu vãn được
gì cho sự vô nghĩa đến mười mươi của tồn tại đời mình. Nhưng biết phải làm gì bây
giờ nhỉ?...
Trần Thanh Sơn (3.2024)
(1) Stefan
Zweig (1881-1942) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Áo. Năm 1934,
Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo Anh, rồi Hoa Kỳ, Brasil. Trong tâm
trạng cô đơn và mệt mỏi vì cuộc sống lưu vong, tháng 2.1942 Stefan Zweig và vợ đã
cùng nhau tự sát. Truyện ngắn kể trên của Stefan Zweig cũng có tên “Bộ sưu tập
vô hình”.
(2) Bernd Alois Zimmermann (1918-1970): Nhà soạn nhạc người Đức, được biết đến nhiều với vở opera “Die Soldaten”, được xem là một trong những vở opera quan trọng nhất của Đức thế kỷ XX. Tác phẩm u ám “Ich Wandte mich und sah an alles Unrecht das geschah unter der Sonne” (dựa trên Sách Truyền đạo) được ông hoàn thành trước khi tự sát đúng 5 ngày.
Ảnh trên: From “Pastel P.1961.41” (Hans Hartung)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét