“...Mọi người ngưỡng mộ ông, nhưng về cơ bản
Beethoven là một hiện tượng hoàn toàn đáng ghét, mọi thứ về Beethoven ít nhiều
đều hài hước, sự bất lực hài hước là điều chúng ta liên tục nghe thấy khi lắng
nghe Beethoven: sự cay đắng, sự vĩ đại, sự đần độn của giai điệu diễu hành ngay
cả trong âm nhạc thính phòng của ông. Khi chúng ta nghe nhạc của Beethoven,
chúng ta nghe thấy nhiều tiếng ồn hơn là âm nhạc (…) Ngay cả Bach béo phì hôi
hám chơi đàn organ của Nhà thờ Saint Thomas cũng chỉ là một nhân vật ngớ ngẩn
và vô cùng ngượng ngùng, không thể tranh cãi về điều đó. Không, không, tất cả
các nghệ sĩ, ngay cả khi họ là những người quan trọng nhất và, như thể, vĩ đại
nhất, thì chẳng là gì ngoài sự sến súa và ngượng ngùng và nực cười”. (Old
Masters - Thomas Bernhard)(1)
Là nhà văn luôn gây sốc, gây tranh cãi bậc nhất
nước Áo vì những phát biểu công khai chống lại những gì ông coi là sự giả vờ
văn hóa hậu chiến, chủ nghĩa bài Do Thái, lề thói địa phương tỉnh lẻ và sự phủ
nhận quá khứ Quốc xã của quê hương mình, văn chương Bernhard mang phong cách đặc
trưng với giọng điệu mỉa mai cay độc, tăm tối bi quan, sẵn sàng xổ toẹt vào mọi
giá trị truyền thống (đoạn vừa trích ở trên có thể xem là một ví dụ), mà đặc biệt
là nền văn hoá Áo và châu Âu sau chiến tranh đầy rẫy sự suy đồi và đạo đức giả.
Xây dựng những nhân vật tiểu thuyết bị bủa vây bởi nỗi tuyệt vọng, sự cô lập, nỗi
ám ảnh trước cái chết, thể hiện bằng những độc thoại bất tận, lặp đi lặp lại,
cay đắng, giận dữ, bức bối, không ngớt chỉ trích, không ngớt chống đối, không
ngớt chê bai, như thể Bernhard muốn qua đó truyền giao tất cả sự hoài nghi và bất
lực của ông về vai trò chính thức của nghệ thuật và của trí thức như một hình
thức và tác nhân của giao tiếp xã hội trong thời đại mà người trí thức (trong
đó có ông) đã và đang mất đi mọi vai trò xã hội thực sự, chỉ còn lại chức năng
đơn thuần là trung gian hòa giải cho sự đồng thuận giữa người tiêu dùng văn hóa
và thị trường văn hóa mang tính chất mua bán và không ngừng xuống cấp.
Viết những phẩm bình ngược ngạo như đã nêu ở
trên, nhưng thật ra Bernhard là một người yêu thích và có mối quan hệ sâu sắc với
âm nhạc, nhất là âm nhạc cổ điển Đức - Áo. Từng học thanh nhạc tại Nhạc viện
Mozarteum ở Salzburg với mong muốn sẽ trở thành một ca sĩ opera, nhưng vì bệnh
tật, ông phải từ bỏ âm nhạc và chuyển hướng sang viết văn. Dù như vậy, tình yêu
và ảnh hưởng của âm nhạc vẫn biểu lộ mạnh mẽ trong tác phẩm và cả trong phong
cách, bút pháp văn chương của ông. Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Bernhard là
nhạc sĩ, nghệ sĩ hoặc có mối liên hệ mật thiết với âm nhạc; các nhà soạn nhạc
như Bach, Mozart, Beethoven, Schubert, Mahler và âm nhạc của họ cũng thường được
ông nhắc tới, tuy nhiên, thay vì mô tả âm nhạc một cách thuần túy, ông dùng nó
để phản ánh tâm trạng nhân vật - sự tuyệt vọng, nỗi ám ảnh hoặc cảm giác về sự
suy tàn của nền văn hóa Áo. Tôn trọng di sản âm nhạc vĩ đại của Áo nhưng
Bernhard thường xuyên chỉ trích những điều ông coi là sự suy đồi của nền văn
hóa nghệ thuật ở Vienna. Trong nhiều tác phẩm, ông thể hiện thái độ mỉa mai chua
chát trước sự việc âm nhạc đã trở thành một biểu tượng bị bóp méo, bị lợi dụng
bởi tầng lớp thượng lưu giả tạo, những kẻ rởm đời. Xem âm nhạc như một biểu tượng
của sự tuyệt đối nhưng cũng là nguồn gốc của sự khổ đau và ám ảnh, ông ngưỡng mộ
những thiên tài âm nhạc như Glenn Gould (2) nhưng đồng thời cũng mô tả sự hủy
diệt mà nghệ thuật (và cả cá nhân thiên tài) có thể mang lại cho con người. Đối
với Bernhard, âm nhạc có thể nâng con người lên đỉnh cao nhưng cũng có thể đẩy
họ vào vực thẳm của sự tự hủy hoại.
Đọc Thomas Bernhard, đặc biệt dưới lăng kính của
một kẻ ít nhiều có can dự đến cái gọi là “nghệ thuật”, người đọc sẽ không khỏi
cảm thấy nhột nhạt khi tự soi chiếu vào những giăng mắc đau lòng mà Bernhard đã
gợi lên trong mình. Bởi, chấp nhận ý tưởng “nghệ thuật hoàn toàn không là gì
khác ngoài một kỹ năng sinh tồn... một nỗ lực để đối phó với thế giới này và những
khía cạnh ghê tởm của nó, mà như chúng ta biết, luôn chỉ có thể thực hiện được
bằng cách dùng đến những lời nói dối và sự dối trá, dùng đến sự đạo đức giả và
tự lừa dối” (1), cũng có nghĩa là chấp nhận sự tha hóa nơi bản chất của hành động
sáng tạo nghệ thuật, sự suy đồi trong tâm thế của người sáng tạo, và sâu xa
hơn, chấp nhận rằng hầu hết nghệ sĩ đều đã bán mình theo nhiều cách khác nhau - nhân danh nghệ thuật.
Trần Thanh Sơn (3.2025)
Xin được trích dịch trong “The Voice Imitator”
(Người bắt chước giọng nói) - một tập hợp gồm 104 mẩu truyện cực ngắn của
Thomas Bernhard - một số mẩu truyện mà tôi cảm thấy thú vị, ít nhiều liên quan
đến âm nhạc - nghệ thuật và nhất là, khiến tôi “không khỏi cảm thấy nhột nhạt
khi tự soi chiếu vào những giăng mắc đau lòng mà Bernhard đã gợi lên trong
mình”:
Người bắt chước giọng
nói
Người bắt chước giọng nói, người được mời làm
khách của hiệp hội phẫu thuật tối qua, đã tuyên bố rằng - sau khi được giới thiệu
tại Palais Pallavinci, anh ấy sẵn lòng đi cùng chúng tôi về nhà tại Kahlenberg,
nơi chúng tôi luôn mở rộng cửa chào đón bất kỳ nghệ sĩ nào muốn thể hiện tài
năng nghệ thuật của mình, và đương nhiên không phải là diễn miễn phí. Chúng tôi
đã đề nghị người nghệ sĩ giả giọng này, vốn là dân Oxford Anh quốc nhưng lại học
ở Landshut và xuất thân ban đầu là một thợ sửa súng ở Berchtesgaden, không lặp
lại mình ở Kahlenberg mà hãy trình diễn cho chúng tôi xem một chương trình hoàn
toàn khác với những gì anh đã thực hiện tại hiệp hội phẫu thuật; nghĩa là, bắt
chước những người hoàn toàn khác với những người anh đã bắt chước tại Palais
Pallavinci, và anh ta hứa sẽ làm như vậy vì tất cả chúng tôi hầu như đều đã thích
mê chương trình mà anh thực hiện tại Palais Pallavinci. Đúng như đã hứa, người
bắt chước giọng nói đã bắt chước giọng của những người hoàn toàn khác, tất cả đều
ít nhiều nổi tiếng, so với những người anh ấy đã bắt chước khi biểu diễn trước
hội phẫu thuật. Chúng tôi được phép bày tỏ mong muốn của riêng mình, người bắt
chước giọng nói đã đáp ứng những yêu cầu đó một cách dễ dàng. Thế nhưng, vào những
phút chót, khi chúng tôi đề nghị anh ta bắt chước giọng nói của chính mình, người
nghệ sĩ nói rằng anh ta không làm điều đó được.
Buổi hoà nhạc thành
công nhất
Một nhóm được gọi là Hiệp hội nhạc thính phòng nổi
tiếng vì chơi nhạc cổ điển trên các nhạc cụ cổ nguyên bản và chỉ chơi Rossini,
Frescobaldi, Vivaldi và Pergolesi trong chương trình của mình, nhóm đã đạt được
thành công lớn nhất kể từ ngày thành lập khi biểu diễn tại một lâu đài cổ bên bờ
hồ Attersee. Tiếng vỗ tay tán thưởng không ngừng nghỉ cho đến khi nhóm không
còn một bản nào trong nhạc mục trình diễn để tiếp tục chơi nữa. Mãi đến ngày
hôm sau các nghệ sĩ mới được tiết lộ cho biết rằng họ đã chơi nhạc trong một viện
dành cho những người câm điếc.
Giống Robert Schumann
Về lý do khiến anh trai mình tự tử, một bác sĩ ở
Wels - người mà tôi từng học chung thời tiểu học và là người vì theo nghề thầy thuốc
buộc phải từ bỏ tài năng và sự thông tuệ về nghệ thuật của mình để miệt mài với
chuyên môn là hoàn toàn chỉ nghiên cứu về cơ thể con người - cho rằng anh trai
mình đã phải đau khổ chịu đựng suốt cả đời vì đã gặp gỡ một người mà theo ông
mô tả là một nữ nhạc sĩ và nghệ sĩ biểu diễn dương cầm rất đỗi tài năng, người
đã dần dà gây ức chế và cuối cùng là kìm hãm tài năng vốn thực sự rất phi thường
của ông, chuyện này khiến tôi nhớ tới thiên tài bất hạnh Robert Schumann (4).
Người cõi trên
Nhờ quen với nhà soạn nhạc một thời tài danh mà
chính chúng tôi trong nhiều năm từng xem đó là một thiên tài có một không hai,
một thợ mộc lành nghề đến từ Maria Saal (địa điểm hành hương được yêu thích ở
Carinthia) đã phát hiện ra văn chương và bắt đầu sáng tác thơ cùng những vở kịch
hài nho nhỏ, tuy nhiên, những sáng tác này, theo những người từng biết chúng, một
mặt hoàn toàn không thể đọc được, mặt khác hoàn toàn không thể diễn được, vì
không ai hiểu nổi chúng. Người thợ mộc đã tự sát ở Längsee vào sinh nhật lần thứ
hai mươi hai của mình trong sự tuyệt vọng vì đã bị xem thường như vậy. Tờ báo
đăng cáo phó ngắn gọn về chàng trai trẻ không được coi trọng này đã nhấn mạnh
lên trên tất cả rằng anh ta là người không thuộc về thế gian này.
Di sản
Cũng người nghệ sĩ trong câu chuyện mà tôi đã kể,
rằng ông cố của tôi đã xây dựng một xưởng vẽ lớn được trang bị theo tiêu chuẩn
được xem là cực kỳ hoành tráng vào thời đó tại một địa điểm mà chàng nghệ sĩ
nói trên được phép chọn trên ngọn đồi nhìn ra Wallersee - nơi mà đối với họa
sĩ, điều kiện ánh sáng thuận lợi là ưu tiên bậc nhất. Số tiền tiêu tốn cho
riêng cho xưởng vẽ này, như người thân của tôi vẫn nhắc đi nhắc lại, có thể
dùng để mua và hiện đại hóa cho cả đống nông trại. Ngay sau khi xưởng vẽ hoàn
thành, như tôi đã tường thuật, người được xây cho xưởng vẽ đã bỏ sang Nam Mỹ và
biến mất, và được tuyên bố là đã chết, xưởng vẽ vừa cất xong cũng mất toi mục
đích thực sự của nó. Tôi cũng hay được kể rằng, cái xưởng vẽ - dù là một công
trình nổi bật ở vùng nông thôn thiếu thốn văn hóa này - luôn được mọi người ngưỡng
mộ, nhưng cuối cùng vẫn bị bỏ mặc trong tình trạng hư hỏng hoàn toàn. Khá lâu
sau đó, những người nông dân trong vùng, những người đều có quan hệ họ hàng với
chúng tôi theo cách này hay cách khác, đã tìm thấy công dụng cho những bức
tranh của chàng họa sĩ, người đã vì lý do nào đó, bỏ đi Nam Mỹ - những tấm toan
khổng lồ mà trên đó chàng hoạ sĩ chỉ thể hiện mỗi quan niệm kỳ lạ của mình về
Chúa Jesus Christ - được dùng làm bạt che, mà mục đích đó, như người ta có thể
hình dung, chúng cực kỳ phù hợp. Tất nhiên, những tấm tranh này chỉ được những
người nông dân sử dụng làm bạt che với hình ảnh Chúa Jesus úp vào bên trong.
Thomas Bernhard
* Thomas Bernhard, The Voice Imitator,
Translated by Kenneth J. Northcott, The University of Chicago Press – Chicago
and London 1997
(1) Thomas Bernhard (1931-1989): Tiểu thuyết gia,
nhà viết kịch, nhà thơ người Áo, được coi là một trong những tác giả tiếng Đức
quan trọng nhất của thời kỳ hậu chiến.
(2) Glenn Gould (1932-1982): Nghệ sĩ piano cổ điển
người Canada. Ông là một trong những nghệ sĩ piano nổi tiếng và được ca ngợi nhất
của thế kỷ 20.
(3) Thomas Bernhard, Old Masters: A Comedy.
(4) Robert Schumann (1810-1856): Nhà soạn nhạc và
phê bình âm nhạc người Đức. Ông là một trong những nhà soạn nhạc lãng mạn lừng
danh nhất thế kỷ 19. Schumann kết hôn với Clara Wieck, một nữ nghệ sĩ piano nổi
tiếng của thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Trong hai năm cuối cuộc đời, sau một vụ tự
sát bất thành, Schumann bị đưa vào một viện tâm thần và qua đời ở đấy.
Ảnh trên: From “The Bold Expressions of Franz Kline from Mahoning 1956 to Abstract” (Franz Kline)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét